Thư
góp ý, Bat bao dong khong phai la bat dong
Giáo
Hội PGHH Trung Ương
Và
Điêu Hành PGHH Truyền Thống VN
5026 West Fifth St Santa Ana
5026 West Fifth St Santa Ana
CA.92703-3122 & PO.BOX 2133
Westminster, CA 92684
---oOo---
Westminster, CA 92684
---oOo---
Kính gởi : Tác giả Thục Quyên
và Diễn Đàn Công Luận về bài viết “ Bất bạo động không phải là bất động
“
Đọc
qua bài viết “Bất bạo động không phải là bất động “ của tác giả rất phù hợp với
chủ trương của Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo Trung Ương và Điều Hành Phật Gáo Hòa
Hảo Truyền Thống Việt Nam của chúng tôi, từ tháng 9 năm 2007, khi Giáo Hội
chúng tôi mới kề vai gánh vác sự nghiệp thừa ế của các anh chị bự trong Phật
Giáo Hòa Hảo làm không nổi bỏ chạy, kẻ quay đầu theo hoặc thân Cộng sản, bỏ đàn
tay em bơ vơ.
.
Đề tài “Bất bạo động không phải là bất động “ rất hay . Tuy nhiên nhiều
người chưa biết áp dụng với hoàn cảnh xã hội.
Từ tháng 9 năm 2007 đến nay ( 2016 ). Giáo Hội chúng tôi đã đạt được nhiều
thành quả vĩ đại, làm cho những phe phái trong 9 triệu tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo
không một ai tưởng tượng được sự thành công của Giáo Hội chúng tôi. Lại có
người không khả năng hiểu biết cách đấu tranh của Giáo Hội chúng tôi, nên có
những lời vô ý thức nói rằng : “ Chỉ có thân Cộng hay theo Cộng sản mới
được yên tịnh 90 % như Huỳnh Kim Phật Giáo Hòa Hảo ! “. Xin thưa,
với Cộng sản, Cha Cộng sản nói , cá nhân người cầm quyền Cộng sản không dám làm
theo, đừng nói là thân ?
.
Xin quý vị, thử xem lại Bản Kháng Cáo hay Kiến Nghị và Tuyên Cáo của Hội
Đồng Liên Tôn Việt Nam và một số tổ chức đấu tranh với Cộng sản Việt Nam trong
mấy năm gần đây; gởi cho giới chức nhận không có khả năng trách nhiệm, chỉ đề
các tổ chức Cộng đồng Việt Nam hải ngoại và nội dung không cho biết Cộng
sản đàn áp …là vi phạm luật Việt Nam hay Quốc Tế như thế nào, sau cùng cũng
không có mục đề nghị, mà các tổ chức Cộng Đồng Việt Nam hải ngoại có khả năng
làm gì cho Cộng sản Việt Nam phải sợ để làm theo ?
Bản văn đề giới chức nhận như vậy, dù có tới tay các cơ quan có thẩm quyền Quốc
Tế hay Hoa Kỳ cũng không ai thấy cơ quan mình có trách nhiệm giải quyết theo bản
văn. Vì giới chức gởi không phải gởi yêu cầu cơ quan của mình.
.
Bởi đó, mấy chục năm qua sự đấu tranh
ở Việt Nam của một số rtổ chức không mấy kết quả, chỉ bị Cộng sản hành hung,
đánh đập và bắt cầm tù rồi người nhà gọi điện thoại trả lời phỏng vấn với các
Đài Phát thanh hải ngoại mà thôi, còn bị đánh đập, hành hung và bị cầm tù là
việc đã rồi
!
.
Kính mời quý vị vui lòng xem
thử bản Phúc Trình của Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo Trung Ương và Điều Hành Phật
Giáo Hòa Hảo Truyền Thống Việt Nam của chúng tôi, cách viết một bản Phúc Trình
để đấu tranh “Bất bạo động không phải là bất động “, từ tháng 9 năm 2007
đến năm 2016, đã kết quả ngăn chặn được hơn 218 vụ Cộng sản bao vây không kịp
đàn áp có lịnh phải rút đi và tháo gỡ hơn 20 gia đình bị Công an quản thúc ngày
đêm tại gia, tại sao Phúc Trình chúng tôi Email gởi đi chừng 15
phút là có Email hồi báo của Tổng thống Hoa Kỳ và một vài cơ quan có thẩm quyền
Quốc Tế, cám ơn chúng tôi báo cáo tin tức, liền theo đó Tòa Tổng Lãnh Sư Hoa Kỳ
tại Sài Gòn cho người điều tra tại chổ, sự việc thường trong vòng 35 phút là
lực lượng Cộng sản đang bao vây địa điểm Phật Giáo Hòa Hảo Việt Nam, có lịnh từ
đâu mà họ phải rút đi cấp tốc, trả lại sự yên tịnh hành đạo cho Phật Giáo Hòa
Hảo Truyền Thống Việt Nam, từ đó đến hiện nay 2016, Phật Giáo Hòa Hảo chúng tôi
được yên tịnh 90 %. ?..
.
Xin lỗi, đây không phải Giáo Hội chúng tôi muốn khoe với quý vị để làm
chi, vì những thành quả của Giáo Hội chúng tôi, trong 9 triệu tín đồ Phật Giáo
Hòa Hảo không một ai làm được, dù ba vụ như chúng tôi đã thành công 218 vụ, và
tháo gỡ hơn 20 gia đình bị Công an CS quản thúc ngày đêm tại gia.
Ở đây Giáo Hội chúng tôi muốn góp ý để trao đổi cùng nhau cho
sự đấu tranh chống độc tài toàn trị mà không bi hại về sức khỏe cho đoàn người
đấu tranh.
Trong sự góp ý, nếu có gì sơ xuất mong quý vị thông cảm, rất cám ơn
---oOo---
Xin
đính kèm Bản Phúc Trình của Giáo Hội chúng tôi, kính mời quý vị xem có phải
cách đấu tranh “Bất bạo động không phải
là bất động “ không ?
--------------------------------------------------------------------
Giáo Hội PGHH Trung Ương
HỎA TỐC
Và
Điêu Hành PGHH Truyền Thống VN
5026 West Fifth St Santa Ana
5026 West Fifth St Santa Ana
CA.92703-3122 & PO.BOX 2133
Westminster, CA 92684
Westminster, CA 92684
Số:………./PGHH/ T.Ư
Tel: 714.589.6860
PHÚC TRÌNH TỘI ÁC CỘNG SẢN VN
Kính gởi : Tổng Thống Hoa Ky Barach Obama, ông Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ Thượng Nghị Sĩ John Kerry, Human Rights Watch và Tòa Đại Sứ các Quốc Gia tự do hiện tại Việt Nam.
Tel: 714.589.6860
PHÚC TRÌNH TỘI ÁC CỘNG SẢN VN
Kính gởi : Tổng Thống Hoa Ky Barach Obama, ông Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ Thượng Nghị Sĩ John Kerry, Human Rights Watch và Tòa Đại Sứ các Quốc Gia tự do hiện tại Việt Nam.
“ Để kính xin có biện
pháp đúng Điều 2 và Điều 70 Hiến Pháp CHXHCNVN và các phần mở đầu cũng như
Điều 18,+19 và Điều 20 của Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc
ngày 10 tháng 12 năm 1948 “
Trích yếu : V/v Cộng Sản Việt Nam tiếp tục đăng báo bịa đặt xách nhiểu, tiêu diệt các nơi tu tập niệm Phật, cúng giỗ, cúng tuần của Đạo Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống
Kính thưa quí vị,
Lúc 10 giờ ngày 10 tháng 12 năm ,. do thiếu tá …, chỉ huy Công An tỉnh…, hướng dẫn toán Công An tỉnh gần 100 người, đến nhà Cư sĩ Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống VN tên ,… tại ấp … xã … quận …tỉnh…Việt Nam; Thiếu Tá …công khai ra lịnh cấm không cho cúng giỗ mẹ của Cư sĩ …vào ngày… tháng … năm,,,.
Từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, nhà cầm quyền Cộng Sản VN không khi nào ngừng nghĩ khủng bố, vu khống để đàn áp, đánh đập, ngăn cấm không cho Cư sĩ Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống cúng giỗ, cúng tuần hay phổ truyền giáo lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ Đạo Phật Giáo Hòa Hảo theo Hiến Pháp nước CHXHCN Cộng sản VN quy định , để dạy đạo tu hành, làm lành lánh dử và Tu tập niệm Phật, Tu Tập Niệm Phật là cái chánh của Đạo thờ Phật.
Mặc dù Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống Việt Nam đã bị nhiều cuộc đàn áp tàn nhẩn, khủng khiếp mà Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống chúng tôi cũng không bao giờ có bạo động , chỉ luôn tu hành đúng Điều 2 và Điều 70 Hiến Pháp CHXHCN Việt Nam. ( xin xem hình ảnh cảnh Cộng sản đàn áp Phật Giáo Hòa Hảo đính kèm phần sau ).
Tuy đất nước Việt Nam hơn 40 năm qua, không còn một tiếng súng quân thù đối với CSVN, mà nhà cầm quyền Cộng sản, vẫn chưa cho Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống VN chúng tôi được tổ chức những ngày Đại Lễ của Đạo một năm nào, như các tôn giáo ở những quốc gia tự do hay các thời đại cầm quyền Việt Nam từ trước ?
Hiện nay ( 9 tháng 12 năm … ) còn ba ngày nữa, Cư sĩ Phật Giáo Hòa Hảo … chuẩn bị cúng giỗ cho mẹ, theo truyền thống Văn hoá Việt Nam từ thời lập quốc, mà nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam cho Công an khắp mọi nơi đến từ nhà tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, kể cả con cháu, họ hàng, thân tộc, Công an công khai ra lịnh “ CẤM “ không cho bất cứ ai đến nhà Cư sĩ …dự lễ giỗ vào ngày…tháng… năm ….
Đây là bằng chứng cụ thể cộng sản Việt Nam phơi bày và coi như tự nhận chủ
Trích yếu : V/v Cộng Sản Việt Nam tiếp tục đăng báo bịa đặt xách nhiểu, tiêu diệt các nơi tu tập niệm Phật, cúng giỗ, cúng tuần của Đạo Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống
Kính thưa quí vị,
Lúc 10 giờ ngày 10 tháng 12 năm ,. do thiếu tá …, chỉ huy Công An tỉnh…, hướng dẫn toán Công An tỉnh gần 100 người, đến nhà Cư sĩ Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống VN tên ,… tại ấp … xã … quận …tỉnh…Việt Nam; Thiếu Tá …công khai ra lịnh cấm không cho cúng giỗ mẹ của Cư sĩ …vào ngày… tháng … năm,,,.
Từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, nhà cầm quyền Cộng Sản VN không khi nào ngừng nghĩ khủng bố, vu khống để đàn áp, đánh đập, ngăn cấm không cho Cư sĩ Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống cúng giỗ, cúng tuần hay phổ truyền giáo lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ Đạo Phật Giáo Hòa Hảo theo Hiến Pháp nước CHXHCN Cộng sản VN quy định , để dạy đạo tu hành, làm lành lánh dử và Tu tập niệm Phật, Tu Tập Niệm Phật là cái chánh của Đạo thờ Phật.
Mặc dù Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống Việt Nam đã bị nhiều cuộc đàn áp tàn nhẩn, khủng khiếp mà Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống chúng tôi cũng không bao giờ có bạo động , chỉ luôn tu hành đúng Điều 2 và Điều 70 Hiến Pháp CHXHCN Việt Nam. ( xin xem hình ảnh cảnh Cộng sản đàn áp Phật Giáo Hòa Hảo đính kèm phần sau ).
Tuy đất nước Việt Nam hơn 40 năm qua, không còn một tiếng súng quân thù đối với CSVN, mà nhà cầm quyền Cộng sản, vẫn chưa cho Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống VN chúng tôi được tổ chức những ngày Đại Lễ của Đạo một năm nào, như các tôn giáo ở những quốc gia tự do hay các thời đại cầm quyền Việt Nam từ trước ?
Hiện nay ( 9 tháng 12 năm … ) còn ba ngày nữa, Cư sĩ Phật Giáo Hòa Hảo … chuẩn bị cúng giỗ cho mẹ, theo truyền thống Văn hoá Việt Nam từ thời lập quốc, mà nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam cho Công an khắp mọi nơi đến từ nhà tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, kể cả con cháu, họ hàng, thân tộc, Công an công khai ra lịnh “ CẤM “ không cho bất cứ ai đến nhà Cư sĩ …dự lễ giỗ vào ngày…tháng… năm ….
Đây là bằng chứng cụ thể cộng sản Việt Nam phơi bày và coi như tự nhận chủ
trương có hệ thống hành
hung, khủng bố đàn áp của nhà cầm quyền, CSVN ngoan cố luôn tiêu diệt Đạo
Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống, cũng như đã và đang đàn áp các tôn giáo khác
tại Việt Nam là rõ ràng vi phạm chính Điều 2 và Điểu 70 Hiến Pháp của nước
CHXHCN Cộng sản VN như sau :
-Chiếu Điều 2 Hiến Pháp nước CHXHCN Cộng sản đã ghi nhận rằng :’ Việt Nam là một quốc gia pháp trị , xử lý theo Hiến Pháp.
-Chiếu Điều 70 Hiến Pháp nước CHXHCN Cộng sản VN đã quy định rằng:
1/-Tất cả công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào .
2/-Các Tôn Giáo đều bình đẳng trước pháp luật
3/-Những nơi thờ tự tín ngưỡng tôn giáo đều được luật pháp bảo hộ
4/-Nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm tự do tín ngưỡng tôn giáo.
Và CHXHC Cộng sản Việt Nam đã và đang vi phạm hòan toàn các phần mở đầu cũng như Điều 18, Điều 19 và Điều 20 của Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền mà nhân danh Chánh Phủ nước CHXHCN Cộng sản Việt Nam đã long trọng ký tên cam kết tôn trọng như sau :
-PHẦN MỞ ĐẦU CỦA BẢN TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN ngày 10 tháng 12 năm 1948 như sau:
1/-Xét rằng thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và quyền bình đẳng bất khả chuyển nhượng của tất cả mọi phần tử trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của tự do công lý và hòa bình thế giới.
2/-Xét rằng phủ nhận và khinh miệt nhân quyền đã đưa tới những hành vi dã man làm phẩn nộ lương tâm nhân loại và việc đạt tới một thế giới trong đó mọi cá nhân đều có quyền tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng được giải thoát khỏi sợ hãi khốn cùng, đã được tuyên xưng là nguyện vọng cao cả nhất của con người.
7/-Xét rằng một quan niệm chung về tự do và nhân quyền có tầm mức hết sức quan trọng trong việc thực hiện trọn vẹn cam kết nầy.
Chiếu Điều 18 : Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo, quyền nầy bao gồm quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng lẫn quyền tự do biểu lộ một mình hoặc với người khác trước công chúng hay ở nơi riêng tư, sự tin tưởng của mình thể hiện qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và lễ nghi.
Chiếu Điều 20:
a/-Ai cũng có quyền tự do hội họp và lập hội có tính chất hòa bình.
b/-Không ai bị bắt buộc phải gia nhập một hội đoàn.
Như đã vùa kể về pháp luật trên, mà từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, ngày 10 tháng 12 năm … ), Thiếu Tá Công An tên Lê Văn…… nhân danh Đại Diện nhà cầm quyền CHXHCN Cộng sản VN công khai ra lịnh CẤM Cư Sĩ …..Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống Việt Nam không được tự do cúng giỗ ch mẹ, ông bà…và đã cho Công an đến từ gia đình Phât Giáo Hòa Hảo phổ biến lịnh CẤM không cho con cháu họ hàng, thân bằng quyến thuộc đến nhà Cư Sĩ …dự lễ cúng giỗ cho Mẹ, bà, chị, hay em… là rõ ràng nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã công khai chà đạp Hiến Pháp của chính nước CHXHCNVN là vi phạm hoàn toàn bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc ngày 10 tháng 12 năm 1948, mà nhà cầm quyền Cộng sản Việt nam đã nhân danh Chánh Phủ ký tên long trọng cam kết nghiêm chỉnh tôn trọng và thi hành.
-Chiếu Điều 2 Hiến Pháp nước CHXHCN Cộng sản đã ghi nhận rằng :’ Việt Nam là một quốc gia pháp trị , xử lý theo Hiến Pháp.
-Chiếu Điều 70 Hiến Pháp nước CHXHCN Cộng sản VN đã quy định rằng:
1/-Tất cả công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào .
2/-Các Tôn Giáo đều bình đẳng trước pháp luật
3/-Những nơi thờ tự tín ngưỡng tôn giáo đều được luật pháp bảo hộ
4/-Nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm tự do tín ngưỡng tôn giáo.
Và CHXHC Cộng sản Việt Nam đã và đang vi phạm hòan toàn các phần mở đầu cũng như Điều 18, Điều 19 và Điều 20 của Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền mà nhân danh Chánh Phủ nước CHXHCN Cộng sản Việt Nam đã long trọng ký tên cam kết tôn trọng như sau :
-PHẦN MỞ ĐẦU CỦA BẢN TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN ngày 10 tháng 12 năm 1948 như sau:
1/-Xét rằng thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và quyền bình đẳng bất khả chuyển nhượng của tất cả mọi phần tử trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của tự do công lý và hòa bình thế giới.
2/-Xét rằng phủ nhận và khinh miệt nhân quyền đã đưa tới những hành vi dã man làm phẩn nộ lương tâm nhân loại và việc đạt tới một thế giới trong đó mọi cá nhân đều có quyền tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng được giải thoát khỏi sợ hãi khốn cùng, đã được tuyên xưng là nguyện vọng cao cả nhất của con người.
7/-Xét rằng một quan niệm chung về tự do và nhân quyền có tầm mức hết sức quan trọng trong việc thực hiện trọn vẹn cam kết nầy.
Chiếu Điều 18 : Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo, quyền nầy bao gồm quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng lẫn quyền tự do biểu lộ một mình hoặc với người khác trước công chúng hay ở nơi riêng tư, sự tin tưởng của mình thể hiện qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và lễ nghi.
Chiếu Điều 20:
a/-Ai cũng có quyền tự do hội họp và lập hội có tính chất hòa bình.
b/-Không ai bị bắt buộc phải gia nhập một hội đoàn.
Như đã vùa kể về pháp luật trên, mà từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, ngày 10 tháng 12 năm … ), Thiếu Tá Công An tên Lê Văn…… nhân danh Đại Diện nhà cầm quyền CHXHCN Cộng sản VN công khai ra lịnh CẤM Cư Sĩ …..Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống Việt Nam không được tự do cúng giỗ ch mẹ, ông bà…và đã cho Công an đến từ gia đình Phât Giáo Hòa Hảo phổ biến lịnh CẤM không cho con cháu họ hàng, thân bằng quyến thuộc đến nhà Cư Sĩ …dự lễ cúng giỗ cho Mẹ, bà, chị, hay em… là rõ ràng nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã công khai chà đạp Hiến Pháp của chính nước CHXHCNVN là vi phạm hoàn toàn bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc ngày 10 tháng 12 năm 1948, mà nhà cầm quyền Cộng sản Việt nam đã nhân danh Chánh Phủ ký tên long trọng cam kết nghiêm chỉnh tôn trọng và thi hành.
Bởi Cộng sản Việt Nam bất tuân Hiến Pháp nước CHXHCN Cộng sản VN và vi phạm Bản
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc một cách công khai và ngoan
cố, nên Giáo Hội Trung Ương chúng tôi,
-ĐỀ NGHỊ : Tổng Thống và Quốc Hội lưỡng viện Hoa Kỳ với các tổ chức có thẩm quyền Quốc Tế đưa nhà cầm quyền CHXHCN Cộng sản Việt Nam vào danh sách các Quốc Gia đáng lưu ý vi phạm Nhân Quyền, ma quý vị đã từng treo cổ các nhà độc tài từ những năm trước, như vậy mới có công bằng với lương tâm của các cơ quan thẩm quyền Quốc Tế đối với nhân loại toàn cầu.
Các tội ác của Cộng Sản Việt Nam, đối với Đạo Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống, Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo Trung Ương chúng tôi, đã phúc trình nhiều lần đến qúi vị có đầy đủ bằng chứng cụ thể, kể cả việc xin quật mồ tập thể năm chục ngàn ( 50.000) tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đã bị Cộng Sản Việt Nam chặt đầu chôn tập thể, mỗi hầm hai ba trăm người, chi vì cái tội " không chiu bước ngang qua hình Đức Huỳnh Gíáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo" , để đối chiếu tội ác Cộng Sản Việt Nam làm bằng chứng với quý vị cũng chưa được quý vị can thiệp với nhà cầm quyền Việt Nam chấp thuận; cũng trong hoàn cảnh siêu mồ lạc mã đó, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 Hoa Kỳ vì lòng nhân đạo bỏ tiền ra thuê người tìm hài cốt chiên binh Mỹ đã hy sinh ở Đông Dương Việt, Miên, :Lào chở bằng phi cơ về Mỹ an táng, Cộng sản thì bốc mộ đem về Nghĩa trang cải tang, còn tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo thì chưa được thỏa mãn theo yêu cầu Giáo Hội chúng tôi. Đấy là một khía cạnh thiếu sót lòng nhân đạo của Hoa Kỳ và Quốc Tế.
Nhà cầm Cộng Sản Việt Nam không phải mới đàn áp Đạo Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống, chỉ vì một vài địa phương cầm quyền thiếu hiểu biết, quyền lực Hiến Pháp chính của Cộng Sản hay Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền mà là chủ trương của nhà cầm quyền Trung Ương Cộng sản đàn áp, tiêu diệt có hệ thống để tiêu diệt Tôn Giáo Phật Giáo Hòa Hảo. Cho nên các cấp lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam không thể nói không trách nhiệm với tội ác tiêu diệt nhân loại và dân tộc thiểu số như các phần mở đầu xét rằng với các Điều 18,- 19,- và Điều 20 Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc đã qui định.
Mặc dầu nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam dùng bạo lực đàn áp tàn nhẩn vô nhân đạo và bỉ ổi, nhưng tất cả tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống chúng tôi, hòan tòan bất bạo động, chỉ có Phúc Trình, trình báo đến quý vị mà thôi.
-ĐỀ NGHỊ : Tổng Thống và Quốc Hội lưỡng viện Hoa Kỳ với các tổ chức có thẩm quyền Quốc Tế đưa nhà cầm quyền CHXHCN Cộng sản Việt Nam vào danh sách các Quốc Gia đáng lưu ý vi phạm Nhân Quyền, ma quý vị đã từng treo cổ các nhà độc tài từ những năm trước, như vậy mới có công bằng với lương tâm của các cơ quan thẩm quyền Quốc Tế đối với nhân loại toàn cầu.
Các tội ác của Cộng Sản Việt Nam, đối với Đạo Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống, Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo Trung Ương chúng tôi, đã phúc trình nhiều lần đến qúi vị có đầy đủ bằng chứng cụ thể, kể cả việc xin quật mồ tập thể năm chục ngàn ( 50.000) tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đã bị Cộng Sản Việt Nam chặt đầu chôn tập thể, mỗi hầm hai ba trăm người, chi vì cái tội " không chiu bước ngang qua hình Đức Huỳnh Gíáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo" , để đối chiếu tội ác Cộng Sản Việt Nam làm bằng chứng với quý vị cũng chưa được quý vị can thiệp với nhà cầm quyền Việt Nam chấp thuận; cũng trong hoàn cảnh siêu mồ lạc mã đó, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 Hoa Kỳ vì lòng nhân đạo bỏ tiền ra thuê người tìm hài cốt chiên binh Mỹ đã hy sinh ở Đông Dương Việt, Miên, :Lào chở bằng phi cơ về Mỹ an táng, Cộng sản thì bốc mộ đem về Nghĩa trang cải tang, còn tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo thì chưa được thỏa mãn theo yêu cầu Giáo Hội chúng tôi. Đấy là một khía cạnh thiếu sót lòng nhân đạo của Hoa Kỳ và Quốc Tế.
Nhà cầm Cộng Sản Việt Nam không phải mới đàn áp Đạo Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống, chỉ vì một vài địa phương cầm quyền thiếu hiểu biết, quyền lực Hiến Pháp chính của Cộng Sản hay Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền mà là chủ trương của nhà cầm quyền Trung Ương Cộng sản đàn áp, tiêu diệt có hệ thống để tiêu diệt Tôn Giáo Phật Giáo Hòa Hảo. Cho nên các cấp lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam không thể nói không trách nhiệm với tội ác tiêu diệt nhân loại và dân tộc thiểu số như các phần mở đầu xét rằng với các Điều 18,- 19,- và Điều 20 Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc đã qui định.
Mặc dầu nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam dùng bạo lực đàn áp tàn nhẩn vô nhân đạo và bỉ ổi, nhưng tất cả tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo Truyền Thống chúng tôi, hòan tòan bất bạo động, chỉ có Phúc Trình, trình báo đến quý vị mà thôi.
Cũng xin nói
rõ là: " Từ ngày 30 tháng 04 năm 1975 đến nay (… ), các cơ quan
truyền thông báo chí, truyền hình tại Việt Nam hòan tòan của nhà cầm quyền Cộng
Sản Việt Nam, nên bất cứ bài viết nào phải có chỉ thị của người cầm quyền chỉ
huy mới được đăng, nên tòan là chuyện bịa đặt để phủ chụp dân oan, để cho các
cơ quan thẩm quyền Quốc Tế phải hiểu lầm sự thật, không biết chủ trương tàn ác
của nhà cầm quyền CSVN mà bỏ qua tội ác Cộng Sản Việt Nam !..
Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo Trung Ương chúng tôi, cực lực tố cáo tội ác Cộng Sản Việt Nam và những cơ quan toa rập hay đồng lõa với tội phạm CSVN trong lịch sử nhân lọai thế giới lưu truyền đời đời...
Trân trọng kính chào.
California, ngày 19 thaág 04 năm…
TM. Giáo Hội PGHH Trung Ương
Hội Trưởng
( ký tên )
Huỳnh Kim
Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo Trung Ương chúng tôi, cực lực tố cáo tội ác Cộng Sản Việt Nam và những cơ quan toa rập hay đồng lõa với tội phạm CSVN trong lịch sử nhân lọai thế giới lưu truyền đời đời...
Trân trọng kính chào.
California, ngày 19 thaág 04 năm…
TM. Giáo Hội PGHH Trung Ương
Hội Trưởng
( ký tên )
Huỳnh Kim
------------------------------------------------
CL] Bất bạo động không
phải là bất động. (1)
Social
Feb 18 at 5:26 PM
Bất bạo động không
phải là bất động. (1)
Thục Quyên
Quan sát xuyên qua nhiều thế kỷ cho thấy một số
lớn các cuộc xung đột không thể giải quyết trực tiếp bằng thỏa hiệp, mà chỉ
được giải quyết thông qua sự đấu tranh. Xung đột xảy ra khi những mâu thuẫn
xuất phát từ tham vọng của cá nhân hay phe nhóm đối chọi nhau.
Theo ý niệm thông thường, quyền lực đến từ bạo
lực và chỉ có thể được kiểm soát bởi bạo lực lớn hơn. Do đó lịch sử của loài
người là một chuỗi chiến tranh vẫn tiếp diễn.
Bản chất của đấu tranh bất bạo động.
Trong thực tế, theo TS Gene Sharp – một
giáo sư khoa học chính trị Mỹ, tác giả của tư tưởng “Cách mạng bất bạo động”,
nổi tiếng đã làm thay đổi thế giới hiện đại và được công nhận là người có ảnh
hưởng rất lớn trên cuộc lật đổ chính phủ Ai Cập và những “cuộc cách mạng màu”
tại Đông Âu- quyền lực xuất phát từ lòng xã hội, do đó mọi người có thể hạn chế
hoặc cắt đứt những nguồn gốc của quyền lực bằng cách từ chối hợp tác. Quyền
lực chính trị của các chính phủ thực sự có thể rất mong manh. Ngay cả sức
mạnh của chế độ độc tài có thể bị phá hủy khi mất sự đóng góp của con người,
điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của bất cứ chế độ nào.(2)
Nói cách khác, theo ông, “nguồn sức mạnh của
người cai trị phụ thuộc vào sự vâng phục và hợp tác của các đối tượng của họ.Thiếu
sự hỗ trợ tích cực hay tùng phục và thụ động của các đối tượng thì họ sẽ
mất quyền lực và mất nền tảng để cai trị.
Tuy nhiên cố gắng thoát khỏi một chế độ độc tài
bằng bạo lực là một chiến lược thiếu khôn ngoan. Những chế độ quân sự đã được
đào tạo và trang bị để dùng bạo lực đối phó bạo lực. Khi phải đối phó với một
sức chống đối không dùng bạo lực nhưng vững vàng và có kỷ luật, họ mới
bị trật “bài bản” và mất thế chủ động“.
Đó chính là bản chất của “Cách mạng màu”, một
cụm từ chỉ những phong trào chính trị đầu thế kỷ 21 trong một số quốc gia thuộc
Liên Xô cũ hay thuộc vùng Balkan, lấy tên cây cối, bông hoa, màu sắc làm tiêu
biểu. Đặc điểm chung của những cuộc cách mạng này là dùng đấu tranh bất bạo
động để đối phó với các chính quyền mà đa số dân chúng coi là tham ô hay độc
đoán. Nổi bật trong những phong trào này là sự tham gia của các tổ chức phi
chính phủ (NGO), các nhóm Xã hội dân sự, giới sinh viên, với những sáng tạo đấu
tranh bất bạo động.
G.S Sharp định nghĩa hành động bất bạo động “như
một kỹ thuật chính trị được chọn lựa để đạt tới mục đích mà không gây
nguy hại, hoặc đe dọa gây nguy hoại sức khoẻ, thương tích cho đối thủ. Định
nghĩa như vậy thì “chủ thuyết đấu tranh bất bạo động” không đồng nghĩa với “chủ
thuyết hòa bình” hoặc cũng không giống hệt với các hệ thống tôn giáo hay triết
học nhấn mạnh “không bạo lực” như là một nguyên tắc đạo đức.
Đấu tranh bất bạo động là một hình thức chống cự
tích cực, mạnh mẽ và quyết tâm. Trong khi thái độ luôn luôn chấp nhận bằng sự
thờ ơ hay chốn chạy, kể cả những tấn công bằng lời nói từ xa, không có khả năng
gây khó khăn cho đối phương, chỉ là những trạng thái thụ động, “bất động” trong
chiều hướng chống đỡ.
Điều kiện thành công: một kiến thức sâu rộng và
một sự hoạch định chiến lược vững vàng.
Trong cuốn “Từ Độc tài đến Dân chủ”, G.S Sharp
đã phác thảo 198 phương pháp bất bạo động, viết để gợi ý cho những người sống
dưới sự cai trị của một nhà độc tài hoặc một hệ thống toàn trị. Tuy nhiên ông
nhấn mạnh điều kiện cơ bản để thành công của mỗi cuộc đấu tranh áp dụng “bất
bạo động” là một kiến thức sâu rộng và một sự hoạch định chiến lược vững
vàng.
“Cảm hứng chẳng đưa chúng ta tới đâu cả! Nếu
bạn chỉ có nhiều ý tưởng hay, thì có gì là ích lợi cho ai? Rất nhiều
người có những ý tưởng vĩ đại đã làm những điều tai hại khủng khiếp. Cảm hứng
không quan trọng bằng việc có kiến thức và hiểu biết về những gì có thể được
thực hiện để thay đổi những cái sai cũng như biết những gì là cần thiết để làm
cho mọi việc tốt hơn. Điều này đòi hỏi suy nghĩ và phân tích“.
Trong một buổi nói chuyện với các sinh viên luật
khoa tại trường đại học Harvard tháng tư năm 2011, GS Sharp đã đưa ra một khía
cạnh rất thực về tình trạng mà những người có ý muốn tranh đấu bất bạo động
thường rơi vào: “trong một thế giới đầy rẫy những áp bức, độc tài, diệt
chủng và bóc lột , chúng ta rất dễ dàng cảm thấy kiệt quệ và bất lực“. Và
lời khuyên của Sharp là:
“Đừng mất thời giờ và năng lượng vào những gì
không/chưa thể thực hiện được. Phải tập trung vào những gì có thể làm (ngay lúc
này và nơi này).Hãy nghiên cứu những thí dụ thành công trong lịch sử và dựa vào
đó, cải thiện những nỗ lực của mình để đạt thêm hiệu qủa.Ước lượng đúng khả
năng của mình, tìm những điểm yếu cố hữu của chế độ toàn trị, và tập trung sức
đối kháng dân sự vào những điểm này để thúc đẩy tác động”.
Những hành động thực tế khởi đầu cho mọi cuộc
đấu tranh bất bạo động là nhằm chế ngự nỗi sợ hãi và tính tùng phục.
Những chế độ độc tài ngày nay thường không cai trị bằng bạo lực tuyệt đối, mà
dựa trên một hỗn hợp độc hại của tuyên truyền, bảo hộ, tính hợp pháp chính trị
(giả tạo), cũng như sự thờ ơ của đám đông. Thêm vào đó là sự sử dụng có hiệu
chuẩn của bạo lực, công khai hay kín đáo, để bao trùm tất cả bằng một tấm
màn sợ hãi.
Sự thật là cả nỗi sợ hãi lẫn thờ ơ đều có khả năng bị rạn nứt. Những người bất đồng chính kiến có thể gây ra những vết nứt đầu tiên bằng cách sáng tạo những phương pháp liên lạc đoàn kết với nhau giữa những người dân trong việc từ chối chế độ.
Sự thật là cả nỗi sợ hãi lẫn thờ ơ đều có khả năng bị rạn nứt. Những người bất đồng chính kiến có thể gây ra những vết nứt đầu tiên bằng cách sáng tạo những phương pháp liên lạc đoàn kết với nhau giữa những người dân trong việc từ chối chế độ.
Từ Mahatma Ghandi tới Gene Sharp
Gene Sharp thường được mô tả là người đã hệ
thống hóa “di sản” đấu tranh bất bạo động của Gandhi.( Hai cuốn sách đầu của
Sharp về đề tài này đều có tựa mang tên Gandhi, cuốn thứ ba do Qũy Hoà bình
Gandhi xuất bản). Tuy vậy, một số nhà nghiên cứu cho rằng có một sự khác biệt
lớn: Trong khi Gandhi nhấn mạnh khía cạnh xây dựng ( vun trồng những hình thức
tốt đẹp hơn trong các mối quan hệ xã hội và kinh tế) và xem nhẹ vai
trò của chiến dịch bất tuân dân sự, Sharp tập trung vào hình thức huy động mạnh
mẽ làn sóng hành động chung của đám đông để trực tiếp chống lại các chính phủ
thiếu dân chủ, mà không chủ trương góp phần chuyển hóa cá nhân, hoặc chuyển hóa
những mối tương quan, xã hội cũng như toàn cầu.
Bất bạo động có gốc rễ trong hầu hết các tôn
giáo. Hiện nay, những nhà lãnh đạo và nhà tư tưởng trên thế giới xiển
dương những khía cạnh tinh thần và thực tiễn của bất bạo động thường được nhắc
tới là (3) Lev Nicolaevich Tolstoy, Albert Einstein, Mohandas Karamchand
Gandhi, Khan Abdul Ghaffar Khan, Martin Luther King jr., Thích Nhất Hạnh,
Daniel Berrigan, Lech Walesa, Petra Kelly, César Chavez…Tinh thần Bất bạo động
được họ giới thiệu và áp dụng dưới nhiều hình thức khác nhau.
Theo tác giả Barry Gan (4) có 3 hình thức :
-hoàn toàn hoặc chủ yếu như một chiến lược chính
trị (gene Sharp).
-hoàn toàn hoặc chủ yếu như là một cách
sống hay một nguyên tắc đạo đức
(Lev Tolstoy, Thích Nhất Hạnh).
-đồng thời là một cách sống, một nguyên tắc đạo
đức và một chiến lược chính trị
(Mahatma Gandhi, Martin Luther King Jr).
Cụ thể nào cho Việt Nam
Tranh đấu bất bạo động như một chiến lược chính
trị theo Sharp, với những thành qủa vào đầu thế kỷ 21 trên toàn cầu, đang có
khuynh hướng được lựa chọn tại Việt Nam vì có vẻ thích nghi với tâm lý và cách
suy nghĩ của thời đại. Cần xét lại những điều kiện để thành công của Sharp (
một kiến thức sâu rộng, một sự hoạch định chiến lược vững vàng, và khả năng kết
nối để hành động chung) đòi hỏi dân trí cao và sự đồng nhất trong xã hội, liệu
có thích hợp thật sự với xã hội Việt Nam hiện nay? Hay Việt Nam với dân trí
chưa phát triển cao, cần theo phương thức đấu tranh bất bạo động Á Đông
gần gũi hơn của Gandhi, chú trọng trước tiên đến củng cố lại cách sống dựa vào
một nguyên tắc đạo đức?
Vì cùng có gốc rễ tôn giáo, Gandhi và Thích Nhất
Hạnh cùng chủ trương ” Bản chất của kỹ thuật phi bạo lực là thanh lý tình
trạng đối lập nhưng không tiêu diệt người đối lập” (Ghandi), hoặc ” Kẻ
thù của ta là vô minh, là bạo động, là tham tàn, là cố chấp, kẻ thù của ta
không phải là con người” (Thích nhất Hạnh).
Gandhi dùng nguyên tắc tôn giáo ahimsa (không
làm gì hại) chung của Phật giáo, Ấn Độ giáo và Jain giáo và biến nó thành
một công cụ không bạo lực cho hành động đại chúng. Ông đã sử dụng nó để chiến
đấu không chỉ chống lại thực dân cai trị mà còn dùng để xoá bỏ những tệ nạn xã
hội như phân biệt chủng tộc, chia rẽ đẳng cấp (thành phần tiện dân).
Barry Gan cho rằng Gandhi không chỉ phổ biến một
cách sống, một nguyên tắc đạo đức như Thích Nhất Hạnh, mà còn có một chiến lược
chính trị rõ ràng. Điều này rất đúng và phản ảnh sự hoạt động của hai nhà tư
tưởng này tuy cùng chung bản chất nhưng trong hai hoàn cảnh và thời điểm xung
đột khác nhau.
Mahatma Gandhi đấu tranh trong một đất nước bị
đô hộ nhưng đang không có chiến tranh. Ông lập chiến lược hành động gọi là
“Chấp trì chân lý” (satyagraha) mà không bị điều kiện thời gian giới hạn, lấy
sự kiên trì và chuyển hóa làm sức mạnh của đám đông. Trong khi Thiền sư Nhất
Hạnh trong khoảng 10 năm đầu của cuộc tranh đấu bất bạo động, phải đứng trong
thế đối đầu với chiến tranh, giữa hai làn bom đạn của Mỹ (và thế giới Tự do) và
của thế giới Cộng sản (Nga/ Trung cộng). Cuộc tranh đấu của ông mới chỉ nằm
trong giai đọan đầu của một cuộc đấu tranh bất bạo động cho tự do dân chủ, theo
định nghĩa 3 điểm của Liên hiệp quốc đưa ra khi lập “Ngày Quốc tế Bất bạo động”
năm 2008 vào ngày sinh nhật của Gandhi (2 tháng 10). Đó là:
1/ Lên tiếng và thuyết phục
2/ Bất hợp tác
3/ Can thiệp
Có lẽ phong trào tranh đấu bất bạo động tại Việt
Nam hiện nay chưa qua khỏi thời kỳ 1( lên tiếng và thuyết phục) thì người Việt
nên theo lời khuyên của GS Sharp, nghiên cứu kỹ những thí dụ trong lịch sử, mà
cận đại nhất là cuộc tranh đấu của Thiền sư Nhất Hạnh, một người Việt Nam. Môi
trường Việt Nam đã không thay đổi mà có thể còn xấu hơn những năm 60/70.
Vốn liếng của mọi phong trào đấu tranh bất bạo
động là dân trí cao và sự gắn bó keo sơn giữa những người (dân) cùng tranh đấu,
Việt Nam vẫn chưa có.
Tuy chiến tranh bom đạn đã dứt nhưng chiến tranh
ý thức hệ và kinh tế vẫn còn. Vì ảnh hưởng và sự áp bức của ngoại bang vẫn đè
nặng, dân Việt không chỉ đối đầu với một nhà cầm quyền bản xứ mà thực ra đang đối
đầu với một bạo lực đô hộ từ bên ngoài. Do đó ngay cả dân trí cao và sự
thống nhất sức đề kháng của toàn dân dù có (nhưng đừng quên là chưa có) vẫn cần
sự trợ giúp của đồng minh. Mà nếu tìm đồng minh nơi các nước tự do thì cần tìm
hiểu sự suy nghĩ của họ, và mảng quan trọng là tìm hiểu tại sao Thiền sư Nhất
Hạnh lại không là một tu sĩ Phật giáo nổi tiếng như Đức Đa Lai La Ma, mà lại
được tôn sùng như một nhà lãnh đạo tư tưởng “Bất bạo động”?
Trong cuốn “Hoa Sen trong biển lửa”(5) Thiền sư
Nhất Hạnh nêu rõ ý muốn của một người con dân Việt nam sáng suốt “Phải tìm được
một giải pháp khác, ngoài giải pháp tiếp tục chiến tranh hay đầu hàng Cộng sản”
. Do đó khi ông rời đất nước đi tìm đồng minh, ông đã qua những nước tự do:
Mỹ và Âu Châu. Là một tu sĩ và một nhà văn hóa, đồng minh của ông hiển nhiên
trước hết là những nhà tôn giáo: Mục sư Martin Luther King Jr, Đức giáo hoàng
Paul VI, linh mục dòng Tên Daniel Berrigan, linh mục dòng Trappist Thomas
Merton…
Nhưng sức mạnh tôn giáo chỉ có ảnh hưởng đủ để
đánh động lương tâm thế giới, áp lực đòi hỏi ngưng chiến. Không có một sức mạnh
quần chúng có tổ chức từ dân tộc (đang có xung đột) nên các nhà lãnh đạo các
phe tham chiến đã sử dụng ngay sự ngưng chiến cho những tham vọng của mình. Từ
đó, nhà tranh đấu bất bạo động Thích Nhất Hạnh chưa bao giờ có dịp trở về sống
trong lòng dân tộc mình, để phát triển một chiến lược xây dựng, vun trồng (một
xã hội lành mạnh) thích hợp với tình trạng và khả năng của con người Việt Nam
hiện tại.
Người được thế giới tôn sùng ngày hôm nay là một
Thiền sư Nhất Hạnh sống tại môi trường Tây phương đã có tự do dân chủ tương
đối, nên những đóng góp của ông ít mang tính chất hướng dẫn “bất tuân dân sự”
mà hầu như chỉ chú trọng vào phần chuyển hóa cá nhân, chuyển hóa và xây dựng
những mối tương quan trong xã hội và toàn cầu. Nhìn bằng con mắt tương tức của
đạo Phật, có thể thấy đây là sự vun trồng tinh thần trách nhiệm của con
người đối với bản thân mình, với gia đình, với môi trường sống của mình và toàn
cầu (6). Phải mang tinh thần trách nhiệm này, người dân những nước giàu có, đầy
đủ tự do dân chủ, mới sẵn sàng dấn thân như những đồng minh thực sự ủng hộ và
giúp đỡ không vụ lợi người dân những nước chưa có tự do dân chủ.
Mỗi cuộc tranh đấu bất bạo động cho Tự do, Dân chủ có một sắc thái riêng.
Mỗi cuộc tranh đấu bất bạo động cho Tự do, Dân chủ có một sắc thái riêng.
Trở lại lời khuyên của GS Sharp, thành công tùy
thuộc ở sự nghiêm túc ước lượng khả năng của mình, những yếu điểm của đối
phương, trau dồi một kiến thức sâu rộng về những thành công trong lịch sử để
hoạch định một chiến lược vững vàng.
Do đó mỗi cuộc tranh đấu bất bạo động cho Tự do,
Dân chủ của mỗi dân tộc phải có một sắc thái đặc thù . Nhưng nền tảng của tất
cả là sức mạnh của đám đông có hướng dẫn (thí dụ như bằng những
quy luật đạo đức như theo Ghandi) một điều luôn phải nhớ khi bắt tay vào
việc, với phương châm: Tập trung vào những gì có thể làm ngay lúc này
và nơi này.
T.Q.
Chú thích:
(1) Bài viết dựa trên những tư tưởng đã được
kiểm chứng bằng hành động của
-Mahatma Ghandi (Mohandas Karamchand
Gandhi) người nêu ra thuyết “Chấp trì chân lí”
( satyāgraha/ insistence on truth ) đã
ảnh hưởng đến các phong trào đấu tranh bất bạo động tại Ấn Độ cũng như trên thế
giới cho đến ngày nay, như phong trào Vận động Quyền công dân tại Hoa Kỳ (American
Civil Rights Movement) được dẫn đầu bởi mục sư Martin Luther King, Jr.
-Thiền
sư Thích Nhất Hạnh, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu, nhà hoạt
động xã hội, và người vận động cho môi sinh và hòa bình. Ông là người đưa ra
khái niệm và xiển dương “Phật giáo dấn thân”(Engaged Buddhism), được mục
sư Martin Luther King Jr. đề cử nhận giải Nobel Hoà Bình 1967, và được Hội đồng
Công giáo Liên đới chủng tộc Davenport /Iowa (Davenport Catholic Interracial
Council) trao giải thưởng “Hoà bình dưới thế”( Pacem in Terris Award)2015.
-Gene
Sharp, giáo sư khoa học chính trị Mỹ. Ông là người sáng lập tổ chức Albert
Einstein, là tác giả của tư tưởng “Cách mạng bất bạo động” nổi tiếng làm thay
đổi thế giới hiện đại và được công nhận là người có ảnh hưởng rất lớn trên cuộc
lật đổ chính phủ Ai Cập và những “cuộc cách mạng màu” tại Đông Âu.
Tác giả gửi BVN
On Thursday, February 18, 2016 5:26 PM, "Dien bien hoa binh [DienDanCongLuan]" <>
wrote:
Bất bạo động không phải là bất động. (1)
Thục
Quyên
Quan sát xuyên qua nhiều thế kỷ cho thấy một số lớn các cuộc xung đột
không thể giải quyết trực tiếp bằng thỏa hiệp, mà chỉ được giải quyết thông qua
sự đấu tranh. Xung đột xảy ra khi những mâu thuẫn xuất phát từ tham vọng của cá
nhân hay phe nhóm đối chọi nhau.
Theo ý niệm thông thường, quyền lực đến từ bạo lực và chỉ có thể
được kiểm soát bởi bạo lực lớn hơn. Do đó lịch sử của loài người là một chuỗi
chiến tranh vẫn tiếp diễn.
Bản chất của đấu tranh bất bạo động.
Trong thực tế, theo TS Gene Sharp – một giáo sư khoa học
chính trị Mỹ, tác giả của tư tưởng “Cách mạng bất bạo động”, nổi tiếng đã làm
thay đổi thế giới hiện đại và được công nhận là người có ảnh hưởng rất lớn trên
cuộc lật đổ chính phủ Ai Cập và những “cuộc cách mạng màu” tại Đông Âu- quyền
lực xuất phát từ lòng xã hội, do đó mọi người có thể hạn chế hoặc cắt đứt những
nguồn gốc của quyền lực bằng cách từ chối hợp tác. Quyền lực chính trị của các chính
phủ thực sự có thể rất mong manh. Ngay cả sức mạnh của chế độ
độc tài có thể bị phá hủy khi mất sự đóng góp của con người, điều kiện cần
thiết cho sự tồn tại của bất cứ chế độ nào.(2)
Nói cách khác, theo ông, “nguồn sức mạnh của người cai trị phụ thuộc vào sự vâng
phục và hợp tác của các đối tượng của họ.Thiếu sự hỗ trợ tích cực hay tùng phục và thụ
động của các đối tượng thì họ sẽ mất quyền lực và mất nền tảng để cai trị.
Tuy nhiên cố gắng thoát khỏi một chế độ độc tài bằng bạo lực là một
chiến lược thiếu khôn ngoan. Những chế độ quân sự đã được đào tạo và trang bị
để dùng bạo lực đối phó bạo lực. Khi phải đối phó với một sức chống đối không dùng bạo lực nhưng vững vàng và có kỷ luật, họ mới bị trật “bài bản” và mất thế chủ động“.
Đó chính là bản chất của “Cách mạng màu”, một cụm từ chỉ những
phong trào chính trị đầu thế kỷ 21 trong một số quốc gia thuộc Liên Xô cũ hay thuộc
vùng Balkan, lấy tên cây cối, bông hoa, màu sắc làm tiêu biểu. Đặc điểm chung
của những cuộc cách mạng này là dùng đấu tranh bất bạo động để đối phó với các
chính quyền mà đa số dân chúng coi là tham ô hay độc đoán. Nổi bật trong những
phong trào này là sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ (NGO), các nhóm Xã
hội dân sự, giới sinh viên, với những sáng tạo đấu tranh bất bạo động.
G.S Sharp định nghĩa hành động bất bạo động “như một kỹ thuật chính trị được
chọn lựa để đạt tới mục đích mà không gây nguy hại, hoặc đe dọa gây nguy hoại
sức khoẻ, thương tích cho đối thủ. Định nghĩa như vậy thì “chủ thuyết đấu tranh
bất bạo động” không đồng nghĩa với “chủ thuyết hòa bình” hoặc cũng không giống
hệt với các hệ thống tôn giáo hay triết học nhấn mạnh “không bạo lực” như là
một nguyên tắc đạo đức.
Đấu tranh bất bạo động là một hình thức chống cự tích cực, mạnh mẽ
và quyết tâm. Trong khi thái độ luôn luôn chấp nhận bằng sự thờ ơ hay chốn chạy,
kể cả những tấn công bằng lời nói từ xa, không có khả năng gây khó khăn cho đối
phương, chỉ là những trạng thái thụ động, “bất động” trong chiều hướng chống
đỡ.
Điều kiện thành công: một kiến thức sâu rộng và một sự hoạch định
chiến lược vững vàng.
Trong cuốn “Từ Độc tài đến Dân chủ”, G.S Sharp đã phác thảo 198 phương
pháp bất bạo động, viết để gợi ý cho những người sống dưới sự cai trị của một
nhà độc tài hoặc một hệ thống toàn trị. Tuy nhiên ông nhấn mạnh điều kiện cơ
bản để thành công của mỗi cuộc đấu tranh áp dụng “bất bạo động” là một
kiến thức sâu rộng và một sự hoạch định chiến lược vững vàng.
“Cảm hứng
chẳng đưa chúng ta tới đâu cả! Nếu bạn chỉ có nhiều ý tưởng hay, thì có gì là
ích lợi cho ai? Rất nhiều người có những ý tưởng vĩ đại đã làm những điều
tai hại khủng khiếp. Cảm hứng không quan trọng bằng việc có kiến thức và hiểu
biết về những gì có thể được thực hiện để thay đổi những cái sai cũng như biết
những gì là cần thiết để làm cho mọi việc tốt hơn. Điều này đòi hỏi suy nghĩ và phân tích“.
Trong một buổi nói chuyện với các sinh viên luật khoa tại trường
đại học Harvard tháng tư năm 2011, GS Sharp đã đưa ra một khía cạnh rất thực về
tình trạng mà những người có ý muốn tranh đấu bất bạo động thường rơi vào: “trong một thế giới đầy rẫy những áp bức, độc tài, diệt
chủng và bóc lột , chúng ta rất dễ dàng cảm thấy kiệt quệ và bất lực“.
Và lời khuyên của Sharp là:
“Đừng mất thời giờ và năng lượng vào những gì không/chưa thể thực hiện
được. Phải tập trung vào những gì có thể làm (ngay lúc này và nơi này).Hãy
nghiên cứu những thí dụ thành công trong lịch sử và dựa vào đó, cải thiện những
nỗ lực của mình để đạt thêm hiệu qủa. Ước lượng đúng khả năng của mình, tìm
những điểm yếu cố hữu của chế độ toàn trị, và tập trung sức đối kháng dân sự
vào những điểm này để thúc đẩy tác động”.
Những hành động thực tế khởi đầu cho mọi cuộc đấu tranh bất bạo
động là nhằm chế ngự
nỗi sợ hãi và tính tùng phục. Những chế độ độc tài ngày nay
thường không cai trị bằng bạo lực tuyệt đối, mà dựa trên một hỗn hợp độc hại
của tuyên truyền, bảo hộ, tính hợp pháp chính trị (giả tạo), cũng như sự thờ ơ
của đám đông. Thêm vào đó là sự sử dụng có hiệu chuẩn của bạo lực, công khai
hay kín đáo, để bao trùm tất cả bằng một tấm màn sợ hãi.
Sự thật là cả nỗi sợ hãi lẫn thờ ơ đều có khả năng bị rạn nứt. Những người bất đồng chính kiến có thể gây ra những vết nứt đầu tiên bằng cách sáng tạo những phương pháp liên lạc đoàn kết với nhau giữa những người dân trong việc từ chối chế độ.
Sự thật là cả nỗi sợ hãi lẫn thờ ơ đều có khả năng bị rạn nứt. Những người bất đồng chính kiến có thể gây ra những vết nứt đầu tiên bằng cách sáng tạo những phương pháp liên lạc đoàn kết với nhau giữa những người dân trong việc từ chối chế độ.
Từ Mahatma Ghandi tới Gene Sharp
Gene Sharp thường được mô tả là người đã hệ thống hóa “di sản” đấu
tranh bất bạo động của Gandhi.( Hai cuốn sách đầu của Sharp về đề tài này đều
có tựa mang tên Gandhi, cuốn thứ ba do Qũy Hoà bình Gandhi xuất bản). Tuy vậy,
một số nhà nghiên cứu cho rằng có một sự khác biệt lớn: Trong khi Gandhi nhấn
mạnh khía cạnh xây dựng ( vun trồng những hình thức tốt đẹp hơn trong các
mối quan hệ xã hội và kinh tế) và xem nhẹ vai trò của chiến dịch bất tuân
dân sự, Sharp tập trung vào hình thức huy động mạnh mẽ làn sóng hành động chung
của đám đông để trực tiếp chống lại các chính phủ thiếu dân chủ, mà không chủ
trương góp phần chuyển hóa cá nhân, hoặc chuyển hóa những mối tương quan, xã
hội cũng như toàn cầu.
Bất bạo động có gốc rễ trong hầu hết các tôn giáo. Hiện nay,
những nhà lãnh đạo và nhà tư tưởng trên thế giới xiển dương những khía cạnh tinh
thần và thực tiễn của bất bạo động thường được nhắc tới là (3) Lev
Nicolaevich Tolstoy, Albert Einstein, Mohandas Karamchand Gandhi, Khan Abdul
Ghaffar Khan, Martin Luther King jr., Thích Nhất Hạnh, Daniel Berrigan, Lech
Walesa, Petra Kelly, César Chavez…Tinh thần Bất bạo động được họ giới thiệu và
áp dụng dưới nhiều hình thức khác nhau.
Theo tác giả Barry Gan (4) có 3 hình thức :
-hoàn toàn hoặc chủ yếu như một chiến lược chính trị (gene Sharp).
-hoàn toàn hoặc chủ yếu như là một cách sống hay một nguyên
tắc đạo đức
(Lev Tolstoy, Thích Nhất Hạnh).
-đồng thời là một cách sống, một nguyên tắc đạo đức và một chiến
lược chính trị
(Mahatma Gandhi, Martin Luther King Jr).
Cụ thể nào cho Việt Nam
Tranh đấu bất bạo động như một chiến lược chính trị theo Sharp,
với những thành qủa vào đầu thế kỷ 21 trên toàn cầu, đang có khuynh hướng được
lựa chọn tại Việt Nam vì có vẻ thích nghi với tâm lý và cách suy nghĩ của thời
đại. Cần xét lại những điều kiện để thành công của Sharp ( một kiến thức sâu
rộng, một sự hoạch định chiến lược vững vàng, và khả năng kết nối để hành động
chung) đòi hỏi dân trí cao và sự đồng nhất trong xã hội, liệu có thích hợp thật
sự với xã hội Việt Nam hiện nay? Hay Việt Nam với dân trí chưa phát triển cao,
cần theo phương thức đấu tranh bất bạo động Á Đông gần gũi hơn của
Gandhi, chú trọng trước tiên đến củng cố lại cách sống dựa vào một nguyên tắc
đạo đức?
Vì cùng có gốc rễ tôn giáo, Gandhi và Thích Nhất Hạnh cùng chủ
trương ” Bản chất của kỹ thuật phi bạo lực là
thanh lý tình trạng đối lập nhưng không tiêu diệt người đối lập”
(Ghandi), hoặc ” Kẻ thù
của ta là vô minh, là bạo động, là tham tàn, là cố chấp, kẻ thù của ta không
phải là con người” (Thích nhất Hạnh).
Gandhi dùng nguyên tắc tôn giáo ahimsa (không làm gì hại) chung
của Phật giáo, Ấn Độ giáo và Jain giáo và biến nó thành một công cụ không
bạo lực cho hành động đại chúng. Ông đã sử dụng nó để chiến đấu không chỉ chống
lại thực dân cai trị mà còn dùng để xoá bỏ những tệ nạn xã hội như phân biệt
chủng tộc, chia rẽ đẳng cấp (thành phần tiện dân).
Barry Gan cho rằng Gandhi không chỉ phổ biến một cách sống, một nguyên
tắc đạo đức như Thích Nhất Hạnh, mà còn có một chiến lược chính trị rõ ràng.
Điều này rất đúng và phản ảnh sự hoạt động của hai nhà tư tưởng này tuy cùng
chung bản chất nhưng trong hai hoàn cảnh và thời điểm xung đột khác nhau.
Mahatma Gandhi đấu tranh trong một đất nước bị đô hộ nhưng đang
không có chiến tranh. Ông lập chiến lược hành động gọi là “Chấp trì chân lý” (satyagraha)
mà không bị điều kiện thời gian giới hạn, lấy sự kiên trì và chuyển hóa làm sức
mạnh của đám đông. Trong khi Thiền sư Nhất Hạnh trong khoảng 10 năm đầu của
cuộc tranh đấu bất bạo động, phải đứng trong thế đối đầu với chiến tranh, giữa
hai làn bom đạn của Mỹ (và thế giới Tự do) và của thế giới Cộng sản (Nga/ Trung
cộng). Cuộc tranh đấu của ông mới chỉ nằm trong giai đọan đầu của một cuộc đấu
tranh bất bạo động cho tự do dân chủ, theo định nghĩa 3 điểm của Liên hiệp quốc
đưa ra khi lập “Ngày Quốc tế Bất bạo động” năm 2008 vào ngày sinh nhật của
Gandhi (2 tháng 10). Đó là:
1/ Lên tiếng và thuyết phục
2/ Bất hợp tác
3/ Can thiệp
Có lẽ phong trào tranh đấu bất bạo động tại Việt Nam hiện nay chưa
qua khỏi thời kỳ 1( lên tiếng và thuyết phục) thì người Việt nên theo lời
khuyên của GS Sharp, nghiên cứu kỹ những thí dụ trong lịch sử, mà cận đại nhất
là cuộc tranh đấu của Thiền sư Nhất Hạnh, một người Việt Nam. Môi trường Việt
Nam đã không thay đổi mà có thể còn xấu hơn những năm 60/70.
Vốn liếng của mọi phong trào đấu tranh bất bạo động là dân trí cao
và sự gắn bó keo sơn giữa những người (dân) cùng tranh đấu, Việt Nam vẫn chưa
có.
Tuy chiến tranh bom đạn đã dứt nhưng chiến tranh ý thức hệ và kinh
tế vẫn còn. Vì ảnh hưởng và sự áp bức của ngoại bang vẫn đè nặng, dân Việt không
chỉ đối đầu với một nhà cầm quyền bản xứ mà thực ra đang đối đầu với một bạo lực đô hộ từ bên
ngoài. Do đó ngay cả dân trí cao và sự thống nhất sức đề kháng
của toàn dân dù có (nhưng đừng quên là chưa có) vẫn cần sự trợ giúp của đồng
minh. Mà nếu tìm đồng minh nơi các nước tự do thì cần tìm hiểu sự suy nghĩ của họ,
và mảng quan trọng là tìm hiểu tại sao Thiền sư Nhất Hạnh lại không là một tu
sĩ Phật giáo nổi tiếng như Đức Đa Lai La Ma, mà lại được tôn sùng như một nhà
lãnh đạo tư tưởng “Bất bạo động”?
Trong cuốn “Hoa Sen trong biển lửa”(5) Thiền sư Nhất Hạnh nêu rõ ý
muốn của một người con dân Việt nam sáng suốt “Phải tìm được một giải pháp
khác, ngoài giải pháp tiếp tục chiến tranh hay đầu hàng Cộng sản” . Do đó khi
ông rời đất nước đi tìm đồng minh, ông đã qua những
nước tự do: Mỹ và Âu Châu. Là một tu sĩ và một nhà văn hóa,
đồng minh của ông hiển nhiên trước hết là những nhà tôn giáo: Mục sư Martin
Luther King Jr, Đức giáo hoàng Paul VI, linh mục dòng Tên Daniel Berrigan, linh
mục dòng Trappist Thomas Merton…
Nhưng sức mạnh tôn giáo chỉ có ảnh hưởng đủ để đánh động lương tâm
thế giới, áp lực đòi hỏi ngưng chiến. Không có một sức mạnh quần chúng có tổ
chức từ dân tộc (đang có xung đột) nên các nhà lãnh đạo các phe tham chiến đã
sử dụng ngay sự ngưng chiến cho những tham vọng của mình. Từ đó, nhà tranh đấu
bất bạo động Thích Nhất Hạnh chưa bao giờ có dịp trở về sống trong lòng dân tộc
mình, để phát triển một chiến lược xây dựng, vun trồng (một xã hội lành mạnh)
thích hợp với tình trạng và khả năng của con người Việt Nam hiện tại.
Người được thế giới tôn sùng ngày hôm nay là một Thiền sư Nhất
Hạnh sống tại môi trường Tây phương đã có tự do dân chủ tương đối, nên những đóng
góp của ông ít mang tính chất hướng dẫn “bất tuân dân sự” mà hầu như chỉ chú
trọng vào phần chuyển hóa cá nhân, chuyển hóa và xây dựng những mối tương quan
trong xã hội và toàn cầu. Nhìn bằng con mắt tương tức của đạo Phật, có thể thấy
đây là sự vun trồng tinh
thần trách nhiệm của con người đối với bản thân mình, với gia
đình, với môi trường sống của mình và toàn cầu (6). Phải mang tinh thần trách
nhiệm này, người dân những nước giàu có, đầy đủ tự do dân chủ, mới sẵn sàng dấn
thân như những đồng minh thực sự ủng hộ và giúp đỡ không vụ lợi người dân những
nước chưa có tự do dân chủ.
Mỗi cuộc tranh đấu bất bạo động cho Tự do, Dân chủ có một sắc thái riêng.
Mỗi cuộc tranh đấu bất bạo động cho Tự do, Dân chủ có một sắc thái riêng.
Trở lại lời khuyên của GS Sharp, thành công tùy thuộc ở sự nghiêm
túc ước lượng khả năng của mình, những yếu điểm của đối phương, trau dồi một
kiến thức sâu rộng về những thành công trong lịch sử để hoạch định một chiến
lược vững vàng.
Do đó mỗi cuộc tranh đấu bất bạo động cho Tự do, Dân chủ của mỗi
dân tộc phải có một sắc thái đặc thù . Nhưng nền tảng của tất cả là sức mạnh của đám đông
có hướng dẫn
(thí dụ như bằng những quy luật đạo đức như theo Ghandi) một điều luôn
phải nhớ khi bắt tay vào việc, với phương châm: Tập trung vào những gì có thể làm ngay lúc này và nơi
này.
T.Q.
Chú thích:
(1) Bài viết dựa trên những tư tưởng đã được kiểm chứng bằng hành
động của
-Mahatma
Ghandi (Mohandas Karamchand Gandhi) người nêu ra thuyết “Chấp
trì chân lí”
( satyāgraha/
insistence on truth ) đã ảnh hưởng đến các phong trào đấu tranh bất bạo động
tại Ấn Độ cũng như trên thế giới cho đến ngày nay, như phong trào Vận động
Quyền công dân tại Hoa Kỳ (American
Civil Rights Movement) được dẫn đầu bởi mục sư Martin Luther King,
Jr.
-Thiền sư
Thích Nhất Hạnh, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu,
nhà hoạt động xã hội, và người vận động cho môi sinh và hòa bình. Ông là người
đưa ra khái niệm và xiển dương “Phật giáo dấn thân”(Engaged Buddhism),
được mục sư Martin Luther King Jr. đề cử nhận giải Nobel Hoà Bình 1967, và được
Hội đồng Công giáo Liên đới chủng tộc Davenport /Iowa (Davenport Catholic
Interracial Council) trao giải thưởng “Hoà bình dưới thế”( Pacem in Terris
Award)2015.
-Gene
Sharp, giáo sư khoa học chính trị Mỹ. Ông là người sáng lập tổ
chức Albert Einstein, là tác giả của tư tưởng “Cách mạng bất bạo động” nổi
tiếng làm thay đổi thế giới hiện đại và được công nhận là người có ảnh hưởng
rất lớn trên cuộc lật đổ chính phủ Ai Cập và những “cuộc cách mạng màu” tại
Đông Âu.
Tác giả gửi
BVN
__._,_.___
No comments:
Post a Comment