KHONG VE VIET NAM NEU
CON VIET CONG MUON CHONG TRUNG CONG PHAI DIET VIET CONG MUON DIET VIET CONG
PHAI DIET VIET GIAN
VIỆT CỘNG CÒN,
NƯỚC SẼ MẤT.
Lê
Duy San
Sau
năm 1975, mặc dầu thù ghét bọn Việt Cộng đến tận xương tủy, nhưng cũng có một số người, nhất là dân miền Nam, thầm phục bọn Việt Cộng đã làm được một việc mà trước kia chính phủ miền Nam Việt Nam (VNCH) đã không làm được đó là đuổi được đám Tầu Chợ Lớn ra khỏi Việt Nam. Nhưng kể từ khi chúng (Việt Cộng) bị Trung Cộng “dậy cho một bài học” vào tháng 2 năm 1979 và cưỡng chiếm quần đảo Trường Sa vào ngày 14 tháng 3 năm 1988 khiến Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí Thư của đảng Cộng Sản Việt Nam phải lậy lục Trung Cộng xin hòa hay nói cho đúng hơn là xin hàng Trung Cộng vào năm 1990.
Việc này làm người ta nghĩ rằng việc làm của chúng trước kia chẳng có gì là đáng phục, mà trái lại còn di hại cho đất nước nhiều hơn: đó là việc chúng phải dâng Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc và cả chục ngàn cây số vuông ở miến Bắc Việt Nam, hàng trăm ngàn cây sô vuông lãnh hải trong đó cò 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng.
Không
những thế, nếu trước kia, chúng đuổi đi được vài trăm ngàn Tầu quốc gia, thì nay, chúng lại mở cửa cho Tầu Cộng Sản tự do vào Việt Nam cả triệu tên, khiến cho có thể đưa Việt Nam tới nguy cơ mất nước. Vì thế, nhiều người ưu tư tới đất nước đã tự hỏi: Nước Việt Nam còn hay đã mất ? Nếu còn thì liệu có giữ được không?
Có
người nói rằng nước đã mất rồi, và đã mất từ lâu. Ông giáo sư Trần đình Ngọc còn nói rõ ràng rằng Hồ Chí Minh đã bán nước từ ngày 3/2/1930 (1). Thực ra thì nước Pháp đã chiếm Việt Nam làm thuộc địa từ lâu, từ năm 1884, nước Việt Nam đâu còn nữa mà để cho Hồ Chí Minh bán? Vả lại Hồ Chí Minh lúc bấy giờ còn đang lang thang, cầu bơ, cầu bất, du thủ, du thực, đâu đã có danh phận gì ngoài chức Chủ Tịch đảng Cướp Cộng Sản Đông Dương với vài trăm đảng viên, mà đòi bán nước cái nỗi gì.
Hơn nữa, tuy ngày nay Việt Nam đã mất thác Bản Giốc, Ải Nam Quan và cả chục ngàn cây số vuông ở biên giới Việt Hoa và cả trăm ngàn cây số vuông hải phận ở biển Đông, nhưng đứng trên phương diện luật pháp và quốc tế thì Việt Nam vẫn còn. Bởi vì tên Việt Nam vẫn còn trên bản đồ thế giới. Nước Việt Nam vẫn được các quốc gia trên thế giới công nhận và Việt Nam vẫn là một thành viên của Liên Hiệp Quốc.
Nhưng liệu Việt Nam sẽ còn tồn tại đến bao giờ? Điều này thật khó nói trước, có điều chắc chắn rằng Việt Cộng còn, Việt Nam sẽ mất, hay nói cho rõ hơn là: Chế độ Cộng Sản Việt Nam còn tồn tại thì nước Việt Nam sẽ mất về tay Trung Cộng vì những lý do sau:
1/ Chính quyền Việt Nam thì hèn với giặc, ác với dân và coi dân như kẻ thù.
Thực vậy, Việt Nam từ xưa tới nay, chưa có một chính quyền nào lại hèn nhát và khiếp nhược như ngụy
quyền cộng sản Việt Nam hiện nay.
Ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam coi Trung Cộng như Mẫu Quốc. Đi đâu, ngụy quyền Việt Nam cũng phải xin phép quan thày
Trung Cộng. Làm gì, ngụy quyền Việt Nam cũng phải báo cáo quan thày Trung Công. Dân Trung Cộng tự do ra vào Việt Nam như đi chợ, không cần chiếu khán. Chúng tự do hành nghề, không cần giấy phép và chọn gái Việt Nam làm vợ như đi chợ mua mấy con chó, con mèo! Dân Trung Cộng tự do lập những khu người Hoa ở khắp mọi nơi. Tại những nơi này, họ tự trị và người Việt bất khả xâm phạm giống như mấy tòa Đại Sứ, Lãnh Sự của ngọai quốc, ngay cả công an Việt Cộng cũng không có quyền xâm phạm những khu vực này.
Ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam để mặc cho Trung Cộng ngang nhiên lấn chiếm đất đai, lộng hành trong hải phận mà không dám đương đầu hay phản đối, dù chỉ bằng đường lối ngọai giao. Ngư dân Việt Nam đánh cá trong vùng hải phận Việt Nam cũng bị Trung Cộng ngang nhiên bắt giữ cả người lẫn ghe thuyền, cá thì tịch thu, người thì bắt nộp phạt mới chịu tha.
Ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam không dám để cho sinh viên, học sinh biểu tình đả đảo Trung Cộng xâm chiếm Hòang Sa, Trường Sa và bắt giam những người biểu tình. Bia tưởng niệm những bộ đội Việt Cộng hy sinh trong cuộc chiến với Trung Cộng vào năm 1979 cũng phải đục bỏ. Các sách giáo khoa từ tiểu học đến đại học, không một dòng chữ nào nói tới Hòang Sa và Trường Sa. Bộ luật nào của Việt Nam cũng phải in cả 2 thứ tiếng Trung Cộng và Việt Nam.
Trái lại đối với dân thì chúng thật độc ác, dã man và
tàn
bạo vô chừng. Quan chức chính quyền thì thi đua tham nhũng, ăn hối lộ. Tên nào cũng thi đua vơ vét của dân để có tiền ăn chơi hoặc cho con em chốn tránh ra ngọai quốc dưới hình thức du học, nhất là Hoa Kỳ, để tẩu tán tiền bạc.
Công an thì coi dân như kẻ thù, hơi một chút là đánh đập, bắt giam, bỏ tù. Đi xe máy mà không đội mũ an toàn cũng có thể bị đánh chết như trường hợp anh Nguyễn Văn Khương ở Bắc Giang bị thiếu úy công an Nguyễn Thế Nghiệp đánh bể đầu chết vì không đội mũ bảo hiểm vào ngày 23 tháng 7, 2010. Ông Trịnh Xuân Tùng ở Hà Nội cũng vậy, bị trung tá công an Nguyễn Văn Ninh đánh gẫy cổ chết vào tháng 2/2011 vì lỗi tương tự và nhiều trường hợp tương tự khác. Là con của một tù nhân lương tâm hay người bất đồng chính kiến cũng có thể bị công an cho côn đồ chém trọng thương như trường hợp của anh Phan Nguyễn Trọng Tú con của nhà bất đồng chính kiến Phan Ngọc Tuấn ở Phan Rang vào ngày 18/9/2012. Chính vì vậy mà có người gọi chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là một Chế Độ Côn Đồ.
Một nhà văn trong nước, ông Hùynh Ngọc Tuấn, trong bài “Không Giống Ai”, đã viết: “Lực lượng “công an nhân dân” thì coi dân như cỏ rác, buồn buồn thì đánh chết một vài người dân cho vui, mục đích là để thị uy. Nếu dư luận trong nước và quốc tế có phản ứng mạnh quá thì cũng xử cho lấy lệ để bịt miệng công luận rồi đâu lại vào đó. Hãy nhìn những cái chết thê thảm của một số nạn nhân trong mấy năm gần đây thì rõ”.
2/ Tinh thần yêu nước của người dân VN không còn, tự ái dân
tộc cũng mất.
Dân
số Thủ Đô Hà Nội bây giờ ít ra cũng phải trên 5 triệu người và dân số thành phố Saigon ít ra cũng phải gần 8 triệu. Vậy mà số người tham dự của mỗi cuộc biểu tình để biểu lộ lòng yêu nước và chống Trung Cộng xâm lược, kể cả một số công an chìm, nổi và những người qua đường vì hiếu kỳ đứng coi, cũng chưa tới 500 người. Nếu không kể những người già cả và trẻ em, tính theo tỷ lệ thì con số người thực sự đi biểu tình cũng không tới 1/10,000. Vậy thì còn 9999 phần 10,000 kia đâu ?
Đành
rằng ngụy quyền cộng sản Việt Nam là một chính quyền hèn với giặc, ác với dân, nên người dân rất sợ. Nhưng tại sao chinh quyền bảo hộ của thực dân Pháp trước kia, cũng ác ôn, cũng tàn bạo, nhưng vẫn có những ông vua như Hàm Nghi, Duy Tân, Thành Thái ra mặt chống đối, vẫn có nhũng cuộc nổi dậy chống Pháp như Nguyễn Trung Trực, Đinh Công Tráng, Phan Đình Phùng, Đề Thám, Nguyễn Thái Học v.v.
Một người dân trong nước đã tự hỏi:
“Chính quyền hiện hành
có còn là chính quyền của dân tộc Việt Nam hay không ? Tự hỏi để rồi ngầm trả
lời: Không, không, không.Chính quyền này không phải là của dân tộc Việt Nam, mà
là chính quyền của đảng cộng sản Việt Nam! Tôi và bao bậc cha mẹ khác lẽ nào
đưa con mình đi cầm súng để bảo vệ đảng nô lệ như thế này ? Tôi đã rớt nước
mắt. Tệ hại quá, tôi phải “nướng”
con tôi cho lũ cầm quyền phản dân tộc này? Tôi sẽ phải làm thế nào ?
Thực ra thì chính Cộng Sản Việt Nam không phải là chính quyền của người dân từ lâu, ngay từ khi mà ông Hồ Chí Minh cướp được chính quyền từ tay chính phủ Trần Trong Kim. Nhưng trong thời kỳ chiến tranh từ 1945 tới 1975, lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam vẫn còn và vẫn hăng say và nồng nhiệt. Chính vì thế mà chúng vẫn bịp bợm và lợi dụng được để chiến thắng miền Nam với sự ủng hộ triệt để của Liên Sô và Trung Cộng . Ngày nay, chúng không còn cần lòng yêu nước của người dân Việt Nam nữa. Chúng chỉ cần làm sao giữ được Đảng để hưởng thụ. Không những thế, chúng còn muốn tiêu diệt hẳn lòng yêu nước của người dân bằng chính sách hủ hóa (ăn chơi xả láng) để chúng dễ bề cai trị. Người dân đã được dậy ngay từ khi biết mới nói, từ lúc mới cắp sách đi học là: “Yêu nước là yêu Đảng, yêu chủ nghĩa
xã hội”. Vì thế chúng ta không lấy làm lạ tại sao những cuộc biểu tình quan trọng như vậy lại chỉ có vài trăm người trong khi những chốn ăn chơi trụy lạc nhỏ bé cũng có cả ngàn người tham dự.
Không
những lòng yêu nước bị đui chột mà còn bị chính quyền cấm đóan. Cũng trong bài “Không Giống Ai”, nhà văn Hùyng Ngọc Tuấn viết: “Lòng
yêu nước có thể nói là di sản quý báu của người Việt Nam mà tổ tiên của chúng ta trao truyền từ đời này sang đời khác, chưa có một triều đại một chính quyền nào “kiểm duyệt” lòng yêu nước chứ đừng nói đến chuyện thủ tiêu, ngăn cấm hay độc quyền. Vậy mà ngày hôm nay trước hành động hiếu chiến và ngang ngược của bọn bành trướng Bắc Kinh, người dân Hà Nội, Sài Gòn đã tự nguyện xuống đường để cho thế giới biết là nhân dân Việt Nam không hèn yếu không vô trách nhiệm với quốc gia, vậy mà đã bị chính nhà cầm quyền “của dân, do dân, vì dân” đàn áp, bắt bớ, vu khống và chụp mũ . Điều này chắc làm cả thế giới kinh ngạc và khó hiểu là Việt Nam đang được điều hành bởi một chính quyền đại diện cho ai ?”
Không
những lòng yêu nước của người dân Việt Nam bây giờ không còn mà ngay cả lòng tự ái dân tộc cũng mất. Trước kia (1975) gia đình Việt Nam nào, có con gái lấy chồng ngọai quốc đều lấy làm xấu hổ (mắc cở) với họ hàng, làng xóm. Nay thì trái lại, gia đình Việt Nam nào có con gái lấy được chồng ngọai quốc, không những không xấu hổ mà còn lấy làm hãnh diện, không những hãnh diện với họ hàng mà cả với làng xóm. Họ hàng, làng xóm cũng không coi đó là đều xấu mà còn coi đó như một tấm gương sáng để cho con cháu noi gương mà bắt chước. Đành rằng ngày nay thế giới mở rộng, việc lấy người ngoại quốc là chuyện bình thường, nhưng coi đó là một tấm gương sáng để con cháu noi theo thì thật là hết chỗ nói.
Sau
mấy chục năm sống dưới chế độ Cộng Sản, người dân Việt Nam bây giờ chỉ biết Tiền, Tiền và Tiền. Vợ chồng, cha con, mẹ con, anh em có thể giết nhau vì Tiền. Bạn bè có thể giết nhau vì Tiền. Thày trò có thể giết nhau vì tiền. Chủ tớ có thể giết nhau vì Tiền. Học sinh, sinh viên cũng có thể vì tiền mà đi bán dâm hay làm đĩ đực. Hoa hậu hay người mẫu cũng có thể bán dâm vì tiền như trường hợp hoa khôi Thiên Kim từng môi giới cho Hoa Hậu Mỹ Xuân đi bán dâm với một “đại gia” tại khách sạn ở thành phố Vũng Tàu với giá 2,500 USD. Thiên Kim lấy 1,000 USD, còn Mỹ Xuân hưởng 1,500 USD. Vợ cũng có thể vì tiền mà ngọai tình hay bán dâm.
Thùy
Linh, một người dân ở Hà Nội viết: “Mình bỗng thương Mỹ Xuân, Hồng Hà, Thiên Kim và
các cô gái bị chà đạp thêm nhiều lần sau các chuyên án điều tra, bóc dỡ đường dây mại dâm này. Chính xã hội là nguyên nhân gây nên cơn “thèm tiền” đến điên loạn. Nếu xếp thang bậc cho cơn thèm khát tiền thì quan chức đứng số 1. Họ bất chấp tất cả để lao vào kiếm tiền, các nhiệm kỳ chưa đủ còn bố trí cả vợ, con cùng tham gia. Hầu như không có quan chức nghèo, chỉ chưa là tất cả các quan chức đều có thể gọi là tỷ phú đôla mà thôi.”…
“Càng xa hoa càng trở thành tấm gương để tạo nên một lối sống cho lớp trẻ “noi theo”.
Đắm chìm trong cuộc sống tất cả điên đảo vì tiền
mà bảo tuổi trẻ nên có thái độ điềm tĩnh với tiền, vật chất thì khác gì rao giảng đạo đức suông ? Rất ít người thoát khỏi tấm lưới bủa vây của tiền bạc.
Và để có được cuộc sống cho bằng người ta, tất nhiên cần tiền. Không thể kiếm tiền bằng các dự án, chính sách như quan chức, đại gia thì đương nhiên phải bán những gì mình có.”
Người nghèo thì sẵn sàng làm bất cứ nghề gì, miễn sao kiếm được tiền để sống, kể cả nghề buôn lậu, ma cô, đĩ điếm đã đành, mà ngay kẻ đã có tiền cũng có thể làm những nghề này để chóng giầu hoặc giầu hơn để hưởng thụ được nhiều hơn, đưa tới gần như cả nước sa đọa. Nhà tan không cần biết, nước mất không cần hay. Đó là thái độ của người dân Việt Nam bây giờ.
3/ Dân tộc chia
rẽ trầm trọng.
Dân Việt Nam không phải là một dân
tộc thuần chủng. Miền Bắc thì có một số lai Tầu, tương lai sẽ có nhiều hơn.
Miền Trung thì lai Chiêm. Miền Nam thì lai Miên. Tôn giáo thì có Phật Giáo,
Công Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo v.v…Sau 1975, dân Việt Nam cũng chia làm
2 hạng: hạng người đã sống dưới chế độ Cộng Sản và hạng người đã sống dưới chế
độ Việt Nam Cộng Hòa. Dù một vài chục năn nữa, số người sống dưới chế độ Việt
Nam Cộng Hòa có chết hết thì cũng vẫn còn hai hạng: hạng là đảng viên cộng sản
và hạng không phải là đảng viên cộng sản. Vì thế thật khó mà có sự đòan kết.
Đành rằng khi tổ quốc lâm nguy, chúng ta có thể gạt bỏ tất cả những dị biệt để
đòan kết chống giặc. Nhưng đó là trường hợp chính quyền là chính quyền của dân,
biết lo cho dân và biết bảo vệ dân. Chính quyền cộng sản Việt Nam không phải là
chính quyền của dân mà là chính quyền của đảng cộng sản nên chỉ biết lo cho
đảng, bảo vệ đảng. Còn dân chúng thì Việt Cộng coi như kẻ thù.
Vì thế, một người dân trong nước đã
nói: “Cầm súng bảo vệ đất nước
thì tôi không sợ. Còn cầm súng,
hy sinh con cái chúng tôi cho quyền lợi riêng của đảng cộng sản Việt Nam thì
khác nào sự ngu xuẩn, hơn nữa, đó là sự nhục nhã ! Còn nếu không đưa con đi nghĩa vụ,
tôi sẽ bảo nó trốn cách nào ? Giá như gia đình tôi có tiền của như đám cán bộ
nắm quyền, tôi sẽ “chạy” được cho con ra nước ngoài du học. Hàng triệu gia đình
như gia đình tôi phải chạy ăn từng bữa thì làm gì có khả năng cao sang đó?
Chúng tôi sẽ đưa con cái chúng tôi trốn đi đâu ? Tôi đang phải trốn chạy, ngay
trên chính quê hương Việt Nam của mình sao ?
Tóm lại, với ba lý do trên, nếu Việt
Cộng còn, hay nói cho rõ hơn, nếu
chế độ cộng sản Việt Nam còn tồn tại, nước Việt Nam chắc chắn sẽ mất dù
chiến tranh có xẩy ra với Trung Cộng hay không.
Đọc lịch sử Việt Nam, chúng ta thấy
Việt Nam đã ba lần mất nước. Nhưng cả ba lần chúng ta đều lấy lại được vì tinh
thần yêu nước của dân ta thời ấy vẫn còn, tự ái dân tộc của dân ta thời ấy rất
cao. Hơn nữa tất cả ba lần mất nước đó đều do ngọai xâm xâm chiếm và chính
quyền do chính người ngọai quốc đứng đầu cai trị. Còn lần này, nếu chuyện mất
nước xẩy ra thì thật là khó lòng lấy lại được vì nước mất là do chính bọn Việt
Cộng dâng cho Tầu. Chính quyền cai trị cũng vẫn chính là bọn Việt Cộng bán nước
làm tay sai cho Tầu nắm giữ thì thật là khó có thể lấy lại được nếu chúng không
tự tan dã hay tự tiêu diệt lẫn nhau ?
Chú thích
(1). Có lẽ ông Bút Xuân đã căn cứ
vào các cam kết “giao nước Việt
Nam cho Trung Quốc”, đã được “ký” bằng “lời hứa danh dự ” của ông Hồ Chí Minh
với 2 Đại Tướng Tàu là Trần Canh và Vị Quốc Thanh, thay mặt cho Mao Trạch Đông
vào năm 1926. Bốn năm sau, năm 1930, thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Hồ
khẳng định một lần nữa với Tổng Lý Chu Ân Lai:“Việt Nam và Trung Quốc tuy hai
mà một: một dân tộc, một nền văn hóa, một phong tục, một tổ quốc”.
No comments:
Post a Comment