xx
,
,
---- ===== ---
Biểu tình 19/3/2017
https://www.youtube.com/results?sp=EgIIAg%253D%253D&q=bi%E1%BB%83u+t%C3%ACnh+2017
Friday, 30 November 2018
Thursday, 29 November 2018
Wednesday, 28 November 2018
Tuesday, 27 November 2018
Monday, 26 November 2018
Sunday, 25 November 2018
Saturday, 24 November 2018
Friday, 23 November 2018
Thursday, 22 November 2018
Wednesday, 21 November 2018
Tuesday, 20 November 2018
Monday, 19 November 2018
Sunday, 18 November 2018
Saturday, 17 November 2018
Friday, 16 November 2018
Thursday, 15 November 2018
ĐỂ HIỂU PHẬT GIÁO HÒA HẢO
ĐỂ HIỂU PHẬT GIÁO HÒA HẢO
Muốn biết căn nguyên Đạo Phật Giáo Hòa Hảo, thì phải nhìn lại sơ
lược lịch sử của Đức Phật Thích Ca, mới biết tại sao Đức Huỳnh Phú Sổ, từ nhỏ
đến 19 tuổi không hề học với ai bất cứ một môn phái nào, mà đứng ra Khai Sáng
lại Đạo Phật Thích Ca đang bị tà thần lấn áp suy đồi, tuột dốc tột cùng;
mà từ ngàn xưa trong Đạo Phật Thích Ca từ Thiền Sư đến 33 đời Tổ, chưa một vị
nào chấn chỉnh được ?
ĐẠO
PHẬT THÍCH CA
CỦA THÁI TỬ SĨ ĐẠT TA
CỦA THÁI TỬ SĨ ĐẠT TA
Nói đến Đạo Phật Thích Ca thì phải nghĩ lại xã hội Ấn Độ, là một
quốc gia thời đó luật lệ rời rạc và mâu thuẩn, xã hội gồm 5 giai cấp khinh miệt
nhau như thú vật là:
1/-Giai cấp Bà La Môn tự nhận là hàng cao thượng.
2/-Giai cấp hàng Vua Chúa, tự coi mình là cha mẹ dân.
3/-Giai cấp xá phệ tự coi minh hàng thương gia giàu có.
4/-Giai cấp Phan hạng là hà tiện nô lệ
5/-Giai cấp giống Ha Ba Ria bị các giai cấp khác khinh miệt như thú vật.
-Xã hội Ấn Độ lúc nầy giai cấp là quan trọng trật tự ở Ấn Độ.
Về nghi lễ hội hè dân chúng thường có thói quen giết thú vật như, trâu, bò, ngựa và cả mạng người để tế thần !..
Trật tự xã hội chưa phát triển để đủ khả năng cải tổ cơ cấu điều hành dân tộc tiến bộ. .
Trong hoàn cảnh đó, tại Ca Tỳ La Vệ hiện nay là biên giới giửa Népan và Ấn Độ, Đức Phật lâm phàm hóa hiện làm người , con vua Tịnh Phạn ( Suddhodana ) và Hoàng Hậu Maha Maya ( Ma Da ), vào ngày mùng 8 tháng tư hồi thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên.
Sanh Thái Tử được bảy ngày thì bà Hoàng Hậu quy tiên, nhờ bà dì thay thế mẹ hiền, chăm sóc Thái Tử đến lớn.
Đứng trước hoàn cảnh xã hội rối ren dân chúng tuyệt vọng, tại Ca Tỳ La Vệ ( Kapilavastu ) phía Bắc Ấn Độ vua Tịnh Phạn nhân từ trị vì Thị Tộc Thích Ca thuộc giống Á Lợi Óc, Kasala, Bà Hoàng Hậu Mada trong một giấc chiêm bao thấy bạch tượng trên không trung sa xuống mình Bà, Bà tỉnh giấc rảo chân bước ra vườn truyền thị vệ thỉnh vua cho Bà gặp để thuật lại giấc chiêm bao.
Thời buổi ấy, vua Tịnh Phạn ưa người đạo, liền truyền mời các thầy bàn vào cung, các thầy bàn đều cho biết là điềm quý, sẽ sanh con thế giới không bằng , Ngài sẽ là một vị vua đứng đầu các vua, một vị chúa tể của loài người, một vị chúa tể vĩ đại và tôn nghiêm sẽ ngự trị khắp địa cầu với tất cả muôn vật ở thế gian.
Thấm thoát Bà Hoàng Hậu trổ sanh Thái Tử, đặt tên là Sĩ Đạt Ta ( Tất Đạt Ta ), họ là Cồ Đàm, có nhà sư cách thành mấy dậm , Ông là người Đạo Bà La Môn Tiên , ăn ở sạch sẽ hiền lành, tu hành tinh tấn, hiểu thiên cơ thấu cả nhiệm mầu, đến xin vua cho vào trong yết kiến Tử Hoàng, được sự chấp thuận vào yết kiến xong ông tỏ vẻ buồn rầu, vua bèn hỏi, ông cho biết Tử Hoàng sẽ là Phật của thế giới, nhưng buồn vì ông tuổi cao, sức yếu không thể được sống để nghe lời Phật thuyết !..
Theo sách truyền, khi Thái Tử 7 tuổi được học với các Thầy giáo giỏi nhứt trong nước, được mời vào cung dạy Thái Tử, từ 7 tuổi đến 12 tuổi Thái Tử đã học thông thạo 5 môn học theo thế gian như:
1/-Ngôn ngữ học, 2/-Công Kỹ Nghệ, 3/-Luân lý học, 4/-Y Học, 5/-Đạo học. Còn thông thạo 4 sách Veda và các sách của Bà La Môn.
Đến 13 tuổi học võ thuật theo truyền thống đẳng cấp võ tướng Ksatryyas, về môn bắn cung, Thái Tử bắn một mũi tên thủng qua 7 lớp trống đồng, trong khi cuộc hội thi với Thái Tử người giỏi nhứt chỉ bắn thủng một lớp trống đồng mà thôi.
Khi đến 16 tuổi, vua cha hội hoàng cung chọn công chúa Yasodlhara ( Da du đà la ), cùng một lứa tuổi cưới cho Thái Tử, sống hạnh phúc trong cung điện, có sanh được một người con. Thái Tử chưa hề biết gì cuộc sống khổ bất hạnh của người đời.
Sau khi Thái Tử du ngoạn ngoài thành thấy người bịnh, già, một xác chết với một nhà sư tu hành, Thái Tử thốt lên " Đời là bể khổ ! " Người ta không ai tránh khỏi những sự khổ não như sinh. lão. bịnh. tử, cho nên Thái Tử lìa bỏ đền đài, cung điện, vợ đẹp con cưng, vua cha quyền thế, đi tầm đạo tu giải thoát để lưu truyền cho loài người, lúc ấy Ngài 19 tuổi, là một sự hy sinh, buông xả vĩ đại, có một không hai trong lịch sử loài người, để lưu truyền gương sáng cho nhân loại, nhứt là thức tỉnh cho 5 giai cấp tại Ấn Độ không nên phân biệt giàu, nghèo, sang hèn, khinh khi người nghèo khó, tật nguyền...Vì chính Thái Tử sẽ là vua muôn dân mà còn xả bỏ tất cả, để tầm đạo tu hành giải thoát dẫn dắt chúng sanh.
Thái Tử đi tu trong 6 năm dài khổ hạnh theo lối tu ép xác của các đạo sĩ Ấn Độ nghiêm khắc, làm cho Thái Tử gầy ốm, nhưng Thái Tử trấn tĩnh được tâm trí và ngự trị tinh thần , Thái Tử quyết đi tìm giác ngộ mà không thấy, Thái Tử nhận định được rằng không thể nào tìm thấy chân lý bằng cách tu ép xác, chịu đau đớn khổ hạnh, làm cho thân thể suy nhược, nên Thái Tử quyết ăn uống trở lại, sau khi được ăn bát cháo của nữ Tỳ Su Già Ta, một thiếu nữ giàu có nhưng rất mộ đạo tu hành , Thái Tử thấy trong người khỏe mạnh.
Thái Tử ngồi xếp bằng dưới một gốc cây Pippala gọi là cây Bồ Đề, gặp phải loài quỉ vương khuấy phá, từ hành động thiện và ác, cám dỗ Thái Tử bỏ ý định sẽ là vị cứu tinh của nhân loại, để quay về với đời sống xa hoa. Nhưng Thái Tử quyết phấn đấu và kiên trì với quyết định tìm chân lý, đến lúc Ngài được trông sáng, như Ngài nhìn thấy rõ những kiếp sống trước đó của Ngài, một kiếp, hai kiếp đến hằng ngàn kiếp...Ngài nhớ lại và thấy rõ các chu kỳ thành hoại của một thế giới, đến nhiều thế giới.
Ngài thấy rõ các chúng sanh tùy theo nghiệp chướng nặng nhẹ, thiện ác mà mỗi người phải luân hồi như thế nào trong các cõi sống.
Sau cùng chân lý từ thiện của Thái Tử đã thắng, Thái Tử Sĩ Đạt ta đã thành Phật toàn năng, toàn giác lúc Ngài 35 tuổi, là Phật Thích Ca.
Ngay khi đắc đạo thành Phật, Đức Phật Thích Ca quyết định ở lại trần thế thuyết giảng dạy đạo cách tu hành giải thoát cho nhân loại.
Chính vì sự quyết định đó, Đức Phật Thích Ca Khai Sáng Đạo Phật tại Ấn Độ, mà trước đó Phật Giáo chưa biệt lập Tam Thừa, tức là chưa phân biệt " Phật, Pháp, Tăng "; một tôn giáo chủ trương từ bi, hỉ xả, dạy người đời coi mọi việc trong xã hội loài người đều là ảo ảnh, là giả tạm, cần phải xả bỏ tất cả lo hành thiện, bố thí diệt trừ tham lam để được giải thoát về cỏi thiêng liêng( Phật ).
Sau 45 năm chu du thuyết đạo tại miền Đông Bắc Ấn Độ, Ngài giáo hóa, độ sanh đã hoàn thành, một ngày nọ Ngài kêu Ngài Ananda lại nói : Còn ba tháng nữa Ta sẽ nhập diệt tịch.
1/-Giai cấp Bà La Môn tự nhận là hàng cao thượng.
2/-Giai cấp hàng Vua Chúa, tự coi mình là cha mẹ dân.
3/-Giai cấp xá phệ tự coi minh hàng thương gia giàu có.
4/-Giai cấp Phan hạng là hà tiện nô lệ
5/-Giai cấp giống Ha Ba Ria bị các giai cấp khác khinh miệt như thú vật.
-Xã hội Ấn Độ lúc nầy giai cấp là quan trọng trật tự ở Ấn Độ.
Về nghi lễ hội hè dân chúng thường có thói quen giết thú vật như, trâu, bò, ngựa và cả mạng người để tế thần !..
Trật tự xã hội chưa phát triển để đủ khả năng cải tổ cơ cấu điều hành dân tộc tiến bộ. .
Trong hoàn cảnh đó, tại Ca Tỳ La Vệ hiện nay là biên giới giửa Népan và Ấn Độ, Đức Phật lâm phàm hóa hiện làm người , con vua Tịnh Phạn ( Suddhodana ) và Hoàng Hậu Maha Maya ( Ma Da ), vào ngày mùng 8 tháng tư hồi thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên.
Sanh Thái Tử được bảy ngày thì bà Hoàng Hậu quy tiên, nhờ bà dì thay thế mẹ hiền, chăm sóc Thái Tử đến lớn.
Đứng trước hoàn cảnh xã hội rối ren dân chúng tuyệt vọng, tại Ca Tỳ La Vệ ( Kapilavastu ) phía Bắc Ấn Độ vua Tịnh Phạn nhân từ trị vì Thị Tộc Thích Ca thuộc giống Á Lợi Óc, Kasala, Bà Hoàng Hậu Mada trong một giấc chiêm bao thấy bạch tượng trên không trung sa xuống mình Bà, Bà tỉnh giấc rảo chân bước ra vườn truyền thị vệ thỉnh vua cho Bà gặp để thuật lại giấc chiêm bao.
Thời buổi ấy, vua Tịnh Phạn ưa người đạo, liền truyền mời các thầy bàn vào cung, các thầy bàn đều cho biết là điềm quý, sẽ sanh con thế giới không bằng , Ngài sẽ là một vị vua đứng đầu các vua, một vị chúa tể của loài người, một vị chúa tể vĩ đại và tôn nghiêm sẽ ngự trị khắp địa cầu với tất cả muôn vật ở thế gian.
Thấm thoát Bà Hoàng Hậu trổ sanh Thái Tử, đặt tên là Sĩ Đạt Ta ( Tất Đạt Ta ), họ là Cồ Đàm, có nhà sư cách thành mấy dậm , Ông là người Đạo Bà La Môn Tiên , ăn ở sạch sẽ hiền lành, tu hành tinh tấn, hiểu thiên cơ thấu cả nhiệm mầu, đến xin vua cho vào trong yết kiến Tử Hoàng, được sự chấp thuận vào yết kiến xong ông tỏ vẻ buồn rầu, vua bèn hỏi, ông cho biết Tử Hoàng sẽ là Phật của thế giới, nhưng buồn vì ông tuổi cao, sức yếu không thể được sống để nghe lời Phật thuyết !..
Theo sách truyền, khi Thái Tử 7 tuổi được học với các Thầy giáo giỏi nhứt trong nước, được mời vào cung dạy Thái Tử, từ 7 tuổi đến 12 tuổi Thái Tử đã học thông thạo 5 môn học theo thế gian như:
1/-Ngôn ngữ học, 2/-Công Kỹ Nghệ, 3/-Luân lý học, 4/-Y Học, 5/-Đạo học. Còn thông thạo 4 sách Veda và các sách của Bà La Môn.
Đến 13 tuổi học võ thuật theo truyền thống đẳng cấp võ tướng Ksatryyas, về môn bắn cung, Thái Tử bắn một mũi tên thủng qua 7 lớp trống đồng, trong khi cuộc hội thi với Thái Tử người giỏi nhứt chỉ bắn thủng một lớp trống đồng mà thôi.
Khi đến 16 tuổi, vua cha hội hoàng cung chọn công chúa Yasodlhara ( Da du đà la ), cùng một lứa tuổi cưới cho Thái Tử, sống hạnh phúc trong cung điện, có sanh được một người con. Thái Tử chưa hề biết gì cuộc sống khổ bất hạnh của người đời.
Sau khi Thái Tử du ngoạn ngoài thành thấy người bịnh, già, một xác chết với một nhà sư tu hành, Thái Tử thốt lên " Đời là bể khổ ! " Người ta không ai tránh khỏi những sự khổ não như sinh. lão. bịnh. tử, cho nên Thái Tử lìa bỏ đền đài, cung điện, vợ đẹp con cưng, vua cha quyền thế, đi tầm đạo tu giải thoát để lưu truyền cho loài người, lúc ấy Ngài 19 tuổi, là một sự hy sinh, buông xả vĩ đại, có một không hai trong lịch sử loài người, để lưu truyền gương sáng cho nhân loại, nhứt là thức tỉnh cho 5 giai cấp tại Ấn Độ không nên phân biệt giàu, nghèo, sang hèn, khinh khi người nghèo khó, tật nguyền...Vì chính Thái Tử sẽ là vua muôn dân mà còn xả bỏ tất cả, để tầm đạo tu hành giải thoát dẫn dắt chúng sanh.
Thái Tử đi tu trong 6 năm dài khổ hạnh theo lối tu ép xác của các đạo sĩ Ấn Độ nghiêm khắc, làm cho Thái Tử gầy ốm, nhưng Thái Tử trấn tĩnh được tâm trí và ngự trị tinh thần , Thái Tử quyết đi tìm giác ngộ mà không thấy, Thái Tử nhận định được rằng không thể nào tìm thấy chân lý bằng cách tu ép xác, chịu đau đớn khổ hạnh, làm cho thân thể suy nhược, nên Thái Tử quyết ăn uống trở lại, sau khi được ăn bát cháo của nữ Tỳ Su Già Ta, một thiếu nữ giàu có nhưng rất mộ đạo tu hành , Thái Tử thấy trong người khỏe mạnh.
Thái Tử ngồi xếp bằng dưới một gốc cây Pippala gọi là cây Bồ Đề, gặp phải loài quỉ vương khuấy phá, từ hành động thiện và ác, cám dỗ Thái Tử bỏ ý định sẽ là vị cứu tinh của nhân loại, để quay về với đời sống xa hoa. Nhưng Thái Tử quyết phấn đấu và kiên trì với quyết định tìm chân lý, đến lúc Ngài được trông sáng, như Ngài nhìn thấy rõ những kiếp sống trước đó của Ngài, một kiếp, hai kiếp đến hằng ngàn kiếp...Ngài nhớ lại và thấy rõ các chu kỳ thành hoại của một thế giới, đến nhiều thế giới.
Ngài thấy rõ các chúng sanh tùy theo nghiệp chướng nặng nhẹ, thiện ác mà mỗi người phải luân hồi như thế nào trong các cõi sống.
Sau cùng chân lý từ thiện của Thái Tử đã thắng, Thái Tử Sĩ Đạt ta đã thành Phật toàn năng, toàn giác lúc Ngài 35 tuổi, là Phật Thích Ca.
Ngay khi đắc đạo thành Phật, Đức Phật Thích Ca quyết định ở lại trần thế thuyết giảng dạy đạo cách tu hành giải thoát cho nhân loại.
Chính vì sự quyết định đó, Đức Phật Thích Ca Khai Sáng Đạo Phật tại Ấn Độ, mà trước đó Phật Giáo chưa biệt lập Tam Thừa, tức là chưa phân biệt " Phật, Pháp, Tăng "; một tôn giáo chủ trương từ bi, hỉ xả, dạy người đời coi mọi việc trong xã hội loài người đều là ảo ảnh, là giả tạm, cần phải xả bỏ tất cả lo hành thiện, bố thí diệt trừ tham lam để được giải thoát về cỏi thiêng liêng( Phật ).
Sau 45 năm chu du thuyết đạo tại miền Đông Bắc Ấn Độ, Ngài giáo hóa, độ sanh đã hoàn thành, một ngày nọ Ngài kêu Ngài Ananda lại nói : Còn ba tháng nữa Ta sẽ nhập diệt tịch.
Ngài Ananda khóc quẹt nước mắt hỏi Đức Phật Thích Ca:
Thế Tôn nhập diệt tịch còn ai giáo hóa cúng con ?
Đức Phật Thích Ca đáp: Ta không phải vị Phật đầu tiên giáng thế,
cũng không phải một vị Phật cuối cùng, khi cần sẽ có một vị Phật khác giáng thế
trên thế giới.( Có nghĩa là mỗi thời kỳ loài người biến đổi,điên đảo, thì sẽ có
một vị thiêng liêng giáng thế, đến thời kỳ khác thì có một vị khác giáng thế phổ
truyền chân lý vô vi trở lại cho phù hợp với thời kỳ đó...
Ngài Ananda hỏi tiếp: Làm sao biết vị ấy là Phật ?
Đức Phật Thích Ca đáp: Vị Phật ấy chí tôn, chí tuệ, hành vi đạo
đức, đem lại điềm lành, biết rõ càn khôn vũ trụ, một vị lãnh đạo vô song của
loài người, một vị chúa tể của Thiên Thần và thế nhân, Đức Phật ấy sẽ vạch rõ
cho người một chân lý bất diệt như Ta đã dạy ngươi, Ngài sẽ giảng đạo vinh
quang tuyệt đỉnh, vinh quang về mục đích chân thật và hình thức như Ta đã dạy
ngươi. Ngài sẽ giảng đạo cho người một đạo vinh quang trong bản nguyên, vinh
quang ở tuyệt đỉnh, vinh quang ở mục đích, về tinh thần và hình thức. Ngài sẽ
chủ trương một cuộc sống đạo lý hoàn toàn và tinh khiết, như Ta đang chủ
trương; Tông đồ của Ngài hằng vạn, còn tông đồ của Ta có mấy ngàn.
Đúng lời Phật Thích Ca nói: suốt 45 năm thuyết đạo tại miền Đông Bắc Ấn Độ tông đồ chỉ có mấy ngàn, vì đạo Ba La Môn cứ mãi kình chống với đạo Phật Thích Ca, đến 400 năm sau Đức Phật nhập diệt tịch, Đạo Phật Thích Ca mới lan rộng ra khắp nước Ấn Độ nơi phát tích Đạo Phật Thích Ca. ( căn cứ tác giả Trịnh Văn Thanh )
Đúng lời Phật Thích Ca nói: suốt 45 năm thuyết đạo tại miền Đông Bắc Ấn Độ tông đồ chỉ có mấy ngàn, vì đạo Ba La Môn cứ mãi kình chống với đạo Phật Thích Ca, đến 400 năm sau Đức Phật nhập diệt tịch, Đạo Phật Thích Ca mới lan rộng ra khắp nước Ấn Độ nơi phát tích Đạo Phật Thích Ca. ( căn cứ tác giả Trịnh Văn Thanh )
Đúng như Đức Phật Thích
Ca công nhận với Ngài Ananda, sau 45 năm chu du thuyết đạo tại miền Đông Bắc Ấn
Độ, dạy đời mà số tín đồ của Phật Thích Ca chỉ có mây ngan,
Nhìn lại Đức Huỳnh Giáo
Chủ Phật Giáo Hòa Hảo chỉ một năm đầu khai sáng lại " Đạo Phật " tại
làng Hòa Hảo, mà số tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tăng vọt gần hai triệu người.( căn
cứ sổ phát thẻ tín đồ của Ban Trị Sự Phật Giáo Hòa Hảo Liên Tỉnh ). Từ khi
Đức Phật Thích Ca nhập diệt tịch đến năm 2018, chưa có vị nào xuất hiện trên
thế giới mở đạo dạy đời, có số tín đồ một năm đầu gần hai triệu người, so với
tỷ lệ, dân số Lục Châu Nam Kỳ chỉ có 4 triệu sáu trăm, 16 ngàn dân ( 4.616.000
ngàn ), như Đức HUỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo ?
Từ khi Đức Phật Thích Ca
nhập diệt tịch đến thế kỷ thứ bảy, Đạo Phật Thích Ca đã suy đồi, do đạo sĩ Bà
La Môn độn nhập trong hàng tăng đồ đem nhiều thuyết Ấn Độ giáo pha trộn giáo
pháp của Đạo Phật Thích Ca, làm cho giáo pháp của hai tôn giáo không gì khác
nhau, , nên có hằng ngàn người bỏ đạo Phật lũ lượt kéo nhau trở về Ấn Độ Giáo
!..
Do đó, một số vị nhìn xa thấy rộng đề xướng một môn phái Phật Giáo mới là " Tín Đồ Phật A Di Đà ". họ tin tưởng Đức Phật A Di Đà cũng đem lại sự giải thoát.
Kể từ thế kỷ thứ bảy và thế kỷ thứ tám, Đạo Phật Thích Ca suy đồi xuống tột cùng ở Ấn Độ.
Đến thế kỷ thứ mười, mới được truyền sang khắp Châu Á như thũy triều, nhưng không biết do các sách nói về Đạo Phật Thích Ca hay vì môn phái riêng của dịch giả mà các bản dịch sang các thứ tiếng bản xứ đã bị nhiều sai trật lời Phật đang thuyết không còn nguyên gốc.
Bởi đó, mỗi quốc gia nền đạo của Đức Phật Thích Ca đã bị chia ra nhiều phái, pha trộn nhiều mê tín dị đoan nghi thức rườm rà, Nam Thần, Nữ Thần và ma quỉ của mỗi địa phương.
Đến đầu thế kỷ 20, Đạo Nho, Đạo Lão coi như bị bế tắc, Đạo Phật Thích Ca bị bóp nghẹt, vì tà đạo chen vào lấn áp, làm cho triết lý Đạo Phật Thích Ca mất cả sự hùng tráng, chùa chiền đáng lẽ là nơi phổ biến kiến thức tu hành giác ngộ, lại có những chùa dùng nơi làm nghề bói toán, xin xâm, bói quẻ, xem tướng số, chủ trương dị đoan mê tín, cúng kiếng tinh tà, đốt giấy tiền vàng bạc, lầu kho, xá phướng, bán bùa chú,dân làng thôn thì lập không biết bao nhiêu miếu thờ tà thần khắp nơi như: ở ranh đất này có miểu thờ ông thổ thần bằng cụt đất, ở đầu cầu kia có miếu thờ ông hổ bằng hình vẻ con cọp, ở gốc cây to có miếu thờ ông tà bằn cụt đá, ỏ mé sông trước cửa nhà có thẻ tre sơn vôi trắng yếm bà thủy cho nhà có con gái không mất nàng dưới,... Những điều ấy hoàn toàn vi phạm giáo truyền của Đức Phật Thích Ca khi đang thuyết. Đức Phật Thích Ca nói: Hởi tỳ kheo, Ta cấm ngươi dùng bùa ngải, phù chú, đó là những việc vô ích, vì luật nhân quả chi phối muôn vật, kẻ làm phép lạ không hiểu giáo lý toàn thiện.
Từ thế kỷ thứ bảy đến thế kỷ 20, trong Đạo Phật Thích Ca có những vị tu hành tinh tấn cũng muốn chấn chỉnh lại Đạo Phật Thích Ca, nhưng không một ai có đủ khả năng cải hóa được. Vì Đức Phật Thích Ca không có tự tay chép lại giáo pháp, nên thiếu địểm cứ, phái nào nói theo phái nấy, ai cũng cho phái ta là đúng.
Cụ thể:
Do đó, một số vị nhìn xa thấy rộng đề xướng một môn phái Phật Giáo mới là " Tín Đồ Phật A Di Đà ". họ tin tưởng Đức Phật A Di Đà cũng đem lại sự giải thoát.
Kể từ thế kỷ thứ bảy và thế kỷ thứ tám, Đạo Phật Thích Ca suy đồi xuống tột cùng ở Ấn Độ.
Đến thế kỷ thứ mười, mới được truyền sang khắp Châu Á như thũy triều, nhưng không biết do các sách nói về Đạo Phật Thích Ca hay vì môn phái riêng của dịch giả mà các bản dịch sang các thứ tiếng bản xứ đã bị nhiều sai trật lời Phật đang thuyết không còn nguyên gốc.
Bởi đó, mỗi quốc gia nền đạo của Đức Phật Thích Ca đã bị chia ra nhiều phái, pha trộn nhiều mê tín dị đoan nghi thức rườm rà, Nam Thần, Nữ Thần và ma quỉ của mỗi địa phương.
Đến đầu thế kỷ 20, Đạo Nho, Đạo Lão coi như bị bế tắc, Đạo Phật Thích Ca bị bóp nghẹt, vì tà đạo chen vào lấn áp, làm cho triết lý Đạo Phật Thích Ca mất cả sự hùng tráng, chùa chiền đáng lẽ là nơi phổ biến kiến thức tu hành giác ngộ, lại có những chùa dùng nơi làm nghề bói toán, xin xâm, bói quẻ, xem tướng số, chủ trương dị đoan mê tín, cúng kiếng tinh tà, đốt giấy tiền vàng bạc, lầu kho, xá phướng, bán bùa chú,dân làng thôn thì lập không biết bao nhiêu miếu thờ tà thần khắp nơi như: ở ranh đất này có miểu thờ ông thổ thần bằng cụt đất, ở đầu cầu kia có miếu thờ ông hổ bằng hình vẻ con cọp, ở gốc cây to có miếu thờ ông tà bằn cụt đá, ỏ mé sông trước cửa nhà có thẻ tre sơn vôi trắng yếm bà thủy cho nhà có con gái không mất nàng dưới,... Những điều ấy hoàn toàn vi phạm giáo truyền của Đức Phật Thích Ca khi đang thuyết. Đức Phật Thích Ca nói: Hởi tỳ kheo, Ta cấm ngươi dùng bùa ngải, phù chú, đó là những việc vô ích, vì luật nhân quả chi phối muôn vật, kẻ làm phép lạ không hiểu giáo lý toàn thiện.
Từ thế kỷ thứ bảy đến thế kỷ 20, trong Đạo Phật Thích Ca có những vị tu hành tinh tấn cũng muốn chấn chỉnh lại Đạo Phật Thích Ca, nhưng không một ai có đủ khả năng cải hóa được. Vì Đức Phật Thích Ca không có tự tay chép lại giáo pháp, nên thiếu địểm cứ, phái nào nói theo phái nấy, ai cũng cho phái ta là đúng.
Cụ thể:
1/- Theo sách " Chúng thánh điểm ký " thì nói năm sanh Đức
Phật Thíc Ca là năm 565 trước Công Nguyên.
2/- Còn các nhà khảo cổ thì nói năm sanh Đức Phật Thích Ca là
năm 563 trước Công Nguyên.
3/-Theo Phật Giáo Tích Lan thì nói sanh Đức Phật Thích Ca vào
năm 624 trước Công Nguyên.
4/- Phật Giáo Tây Tạng thì nói sanh Đức Phật là năm 620 trước
Công Nguyên.
5/-Phật Giáo ở phía Bắc Ấn Độ thì nói sanh Đức Phật Thích Ca là
năm 1028 trước kỷ nguyên vào đời vua Chiêu vương nhà Chu.
6/-Còn bia ký ở Buddha Gaya Ấn Độ có ghi sanh Đức Phật Thích Ca
là năm 623 trước Công nguyên.
7/- Những nhà bác học thời bấy giờ nói sanh Đức Phật Thích Ca
vào năm 558 hay là 520 trước Công Nguyên.
Đức Huỳnh Giáo
Chủ cho biết Đản sanh Đức Phật Thích Ca hồi thế kỷ thứ sáu như sau:
..." Có một điều già trẻ ân cần,
Là phải biết nguyên nhân Phật Giáo.
Hồi thế kỷ khoảng trong thứ sáu,
Trước kỷ nguyên tây lịch thời xưa.
Pháp giáo chưa biệt lập tam thừa,
Thuở Trung Quốc nhà Châu Chiêu Đế. "...
Và Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng cho biết Bà Hoàng Hậu khi có mang như
sau :
..." Đêm trăng thanh gió mát thảnh thơi,
Tiết hòa thuận khắp nơi hoa nở.
Đức Hoàng hậu trong lòng hớn hở,
Giấc chiêm bao bà thấy lạ lùng.
Bạch tượng từ ở chốn không trung,
Bổng sa xuống mình Bà hối hả.
Vừa tỉnh giấc mơ tiên mới lạ,
Khắp phòng huê thơm nức mùi hương. "...
-Đức Huỳnh Giáo Chủ Đạo Phật Giáo Hòa Hảo lại cho biết khi sanh
Đức Phật Thích Ca với thời tiết như sau:
..." Ngày thắm thoát đông qua hạ chí,
Bà trổ sanh thái tử đẹp tươi.
Mặt trang nghiêm khí phách hơn người.
Vua cùng khắp thần dân mừng rỡ,
Họ Thích Ca từ đây cũng ngỡ.
Sẽ có người nối nghiệp hoàng gia,
Liền đặt tên là Sĩ Đạt Ta. "...
-Đức Huỳnh Giáo Chủ Đạo Phật Giáo Hòa Hảo dùng siêu hình thực
nghiệm chẳng những chỉ biết khi sanh Đức Phật Thích Ca, Ngài còn biết khi Bà
Hoàng Hậu khi có mang và khi sanh Thái Tử Sĩ Đạt Ta ( Đức Phật Thích Ca ) như
thế nào, mà trong loài người kể cả các nhà khoa học chưa bao giờ biết, đến cuối
năm 2015 Khoa Học UNESCO mới khám phá ra một ngôi đền cổ nằm dưới ngôi đền hiện
tại ở Ấn Độ, xác nhận Đản Sanh Đức Phật Thích Ca hồi thế kỷ thứ sáu, trước Công
Nguyên 600 năm, đúng y như Đức Huỳnh Giáo Chủ Đạo Phật Giáo Hòa Hảo đã biết như
đã dẫn chứng trên.
Đó mới dám nói Đức Huỳnh Giáo Chủ Đạo Phật Giáo Hòa Hảo tiên tri
đi trước và đi xa hơn khoa học hiện tại và loài người.
ĐẠO PHẬT GIÁO
HÒA HẢO
CỦA ĐỨC HUỲNH PHÚ SỔ
Nói
đến Tôn Giáo là ai cũng biết đó là " Đạo " , Đạo là con đường, từ bi
bác ái, con đường dẫn dắt chúng sanh tu học, con đường tu tâm dưỡng tánh, con
đường chỉ dẫn kẻ lầm lỗi, tàn ác biết ăn năn sấm hối cho tội căn được tiêu mòn
và mong được giải thoát khỏi cảnh luân hồi trong bể khổ trần thế
Lão Tử nói: Trước khi có trời đất thì chỉ có " Đạo ",
vạn vật đều do Đạo mà sinh ra, Đạo là cái gốc nguyên thủy
các sự tạo hóa, Đạo là bản thể của vũ trụ.
-Đức Phật Thích Ca, những lời cuối cùng, Ngài nhắc đi, nhắc lại,
khuyến cáo các tông đồ rằng: " Bản tính của mọi vật đều suy tàn, chân lý
thì tồn tại mãi mãi. " Có nghĩa là danh Đạo vẫn tồn tại, nhưng cái đạo
không bất diệt "; có thể hiểu theo thực tế là: " Danh Đạo vẫn còn lưu
truyền, chánh pháp không còn nguyên thủy. " Vì Giáo Chủ nào khi
đã hoàn tất sứ mạng phải trở về thiên cung, sau đó, người phàm tục kế thừa, sửa
đổi hay thêm bớt và tà đạo xen vào đem nhiều thuyết dị đoan mê tín, cúng kiến
tinh tà, pha trộn chân lý của Giáo Chủ, làm cho chân lý nguyên thủy của Giáo
Chủ không còn nguyên gốc, nên người đời sau tu hành hằng ngàn năm không thấy ai
thành, bởi đó Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết:
... " Cả ngàn năm lương tâm xao xuyến,
Sao tu hoài chẳng thấy ai thành.
Bởi chữ tu liền với hữ nhành,
Hành bât chánh người đời mới nói.
Bị tăng chúng quá ham chùa ngói,
Nên tảo khuyên khắp chốn cùng làng.
Phật nào ham tượng cốt phết vàng,
Mà tăng tạo hao tiền bá
tánh "... ( tăng đây là thêm )
Đến đầu thế kỷ 20, Đạo Nho, Đạo Lão coi như bị bế tắc, Đạo Phật
Thích Ca coi như bị bóp nghẹt, vì tà đạo chen vào lấn áp, làm cho triết lý Đạo
Phật Thích Ca mất cả sự hùng tráng, chùa chiền đáng lẽ là nơi phổ biến kiến
thức tu hành giác ngộ, lại có những chùa dùng nơi làm nghề bói toán, xin xâm,
bói quẻ, xem tướng số, chủ trương dị đoan mê tín, cúng kiếng tinh tà, đốt giấy
tiền vàng bạc, lầu kho, xá phướng, bán bùa chú, mượn kinh luân tụng mướn lấy
tiền...Dân chúng thì thành
lập nhiêu miếu thờ tà thần khắp nơi như: ở ranh đất này có miểu thờ ông "
Thổ Thần " bằng cụt đất, ở đầu cầu kia có miếu thờ " ông hổ " bằng hình vẻ con cọp, ở gốc cây to có
miếu thờ " ông Tà " bằng cụt đá, ỏ mé sông trước cửa nhà có thẻ
tre sơn vôi trắng yếm " bà thủy " cho nhà có con gái không mất bịnh
nàng dưới,... Những điều ấy hoàn toàn vi phạm giáo truyền vô vi của Đức Phật
Thích Ca khi đang thuyết.
Đức Phật Thich Ca nói: Hởi tỳ kheo, Ta cấm ngươi dùng bùa
ngải, phù chú, đó là những việc vô ích, vì luật nhân quả chi phối muôn vật, kẻ
làm phép lạ không hiểu giáo lý toàn thiện.,
Đứng trước hoàn cảnh chúng dân mê tín thờ cúng tà thần hồ
lốn, hổn độn như thế, làm cho Đạo Phật Thích Ca suy đồi, tuột dốc tận cùng, Đức Huỳnh Phú Sổ mới 19 tuổi, xuất hiện, dùng siêu hình thực nghiệm, tự biết
những quy điều vô vi của Đúc Phật Thích Ca đang thuyết, Ngài khai sáng
lại " Đạo Phật " tại làng Hòa Hảo mới có đạo hiệu là
" Phật Giáo Hòa Hảo " đúng như lời của Đức Phật Thích Ca
đã nói với Ngài Ananda mấy ngàn năm trước.
Đức Huỳnh Phú Sổ từ 15
tuổi vừa thi đậu bằng cấp Sơ Đẳng Tiểu học, tức là bằng cấp lớp Ba trường Công
lập Phổ Thông quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, thì đau ốm liên miên, nên phải nghỉ
học về nhà để tìm thầy trị bịnh, nhưng không một thầy thuốc Đông Y hay bác
sĩ Tây y nào trị được căn bịnh của Ngài. Khi bịnh dịch chết người lan tràn khắp
Lục Châu Nam Kỳ, nhà cầm quyền Pháp không có thuốc trị; đầu trên mất vợ, xóm
dưới chồng hay mất con, cháu... họ khóc kể, rên la thảm thiết, Đức Huỳnh
Phú Sổ tự nhiên hết bịnh đi ra đường kêu đầu trên, xóm dưới, ai mắc bịnh chi
đem đến trị cho ?
Những
gia đình ở gần có người bịnh, thầy thuốc Đông Y và bác sĩ Tây Y đều bó tay bỏ
chạy, thân nhân chở về nhà nằm chờ chết, họ nghe vậy đánh liều chở đến cho Ngài
trị, may ra hết bịnh thì tốt, còn không hết cũng giống như nằm nhà chờ chết
vậy. Khi đem đến Ngài chỉ cho uống nước lạnh hay bông thọ, bông trang vậy mà
bịnh nào cũng hết, tiếng đồn lan rộng ra xa, người ta chở bịnh nhân đến tấp
nập. Ngài vừa trị bịnh cứu đời, vừa thuyết giảng tiên tri thời cuộc Việt Nam và
thời sự thế giới, dạy đạo tu hành; Khai Sáng lại " Đạo
Phật " tại làng Hòa Hảo,từ d9o` người ta kêu Cậu Tư Hòa Hảo
hay ông Tư Hòa Hảo, đến khi tín đồ tăng vọt quá sự tưởng tượng của mọi người,
thì các nhà trí thức tự tôn vinh Ngài là " Đức
Huỳnh Giáo Chủ " Đạo Phật Giáo Hòa Hảo, không còn ai dám
kêu tên Ngài nữa.
Bởi
đó, phải nói là " Phật Giáo Hòa Hảo " chứ không nói Hoa
Hảo. Vì nói " Hòa Hảo " tức là có
người mà không có họ, còn nói " Phật Giáo " mà không nói
Hòa Hảo, cũng giống như có họ mà không có người ! Đó là Đạo Phật Thích
Ca là căn nguyên của Đạo Phật Giáo Hòa Hảo, chứ không phải Đạo Phật Giáo Hòa
Hảo là một môn phái như các môn của người phàm tục xuất gia tu hành khi thông
suốt kinh điển rồi bất đồng nhau mà tách ra cất chùa và lập một môn phái khác,
đã có trong Đạo Phật Thích Ca từ xưa nay.
Cũng
như Đức Phật Thích Ca nói với Ngài Ananda: " Vị Phật ấy chí
tôn, chí tuệ, hành vi đạo đức vô song ". Có nghĩa là Đức Huỳnh Giáo CHủ
không học với bất cứ ai về một môn phái nào, mà tự thông suốt tất cả mọi việc,
kể cả thời cuộc bản xứ và thời sự thế giời rất nhiều các tôn giáo khác.
Nhìn
lại hành vi đạo đức của Đức Huỳnh Giáo Chủ rất là trong sáng, không có một điểm
nào vướng vào bụi đời như người phàm tục.
II/- Đức
Phật nói: “ Vị Phật ấy tức là Đức Huỳnh Giáo Chủ, biết rõ càn khôn vũ trụ “. để
chứng minh lời Đức Phật Thích Ca nói: Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết càn khôn vũ
trụ như sau:
..." Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật,
Dầu Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, súc sanh.
Cứ nhứt tâm, tín, nguyện, phụng hành,
Được cứu cánh về nơi an dưỡng."...
Dầu Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, súc sanh.
Cứ nhứt tâm, tín, nguyện, phụng hành,
Được cứu cánh về nơi an dưỡng."...
-Đó là Đức Huỳnh Giáo Chủ đã biết rõ càn khôn vũ trụ, như Đức Phật Thích Ca đã nói với Ngài Ananda mấy ngàn năm xưa. "
Nhìn lại lịch sử Tôn Giáo toàn cầu kể cả Đức
Phật Thích Ca cũng chưa cho biết rõ về " Ma, Quỉ, súc sanh " tu được
đắc quả vị thiêng liêng như Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo đã cho biết
như trên.
Ngược lại, có một số Tôn Giáo đã quan niệm rằng, người ngoài tôn giáo họ, toàn là Ma, Quỉ, Súc Sanh... không phải người ta như họ, nên không thể tu hành đắc đạo được về cõi Tiên, Phật...như họ được !!!
Ngược lại, có một số Tôn Giáo đã quan niệm rằng, người ngoài tôn giáo họ, toàn là Ma, Quỉ, Súc Sanh... không phải người ta như họ, nên không thể tu hành đắc đạo được về cõi Tiên, Phật...như họ được !!!
III/- Đức Phật Thích Ca nói: " Vị Phật ấy chủ
trương cho loài người một cuộc sống bất diệt như Đức Phật Thích Ca chủ trương
cho người:
-Đức
Huỳnh Giáo Chủ, chủ trương tu hành tại gia, không mắc nợ đàn na
thí chủ, không cần ai dâng cơm, chào nước, tự làm, tự sống, tự tu tại gia với
giáo lý Tứ Ân là những ân bất diệt, nếu là loài người, đời nầy đến muôn đời
khác, đều phải biêt Tứ Đại Trọng Ân, dân tộc của quốc gia nào, không một chế độ
nào dám chối bỏ Tứ Đại Trọng Ân, mà bốn cái Ân bất diệt như sau:
1/-Ân
Tổ Tiên cha mẹ : Ta sanh ra cõi đời được hình hài để hoạt động từ thuở
bé nhỏ đến lúc trưởng thành, đủ trí khôn ngoan, trong khoảng bao nhiêu năm
trường ấy, cha mẹ ta chịu biết bao nhiêu khổ nhọc nhưng sanh ra cha mẹ là nhờ
có tổ tiên, nên khi biết ơn cha mẹ cũng phải có bổn phận biết ơn tổ tiên nữa.
Đó là cái ân bất diệt thứ nhứt.
2/-Ân
Đất Nước: Sanh ra, ta phải nhờ Tổ Tiên, cha mẹ, sống ta phải nhờ đất nước,
quê hương. Hưởng những tấc đất, ăn những ngọn rau, muốn cho sự sống được
dễ dàng, giống nòi được truyền thụ , ta cảm thấy bổn phận phải bảo vệ đât nước,
Bờ cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc gia mạnh giàu mình ta mới ấm. Hảy tùy
tài, tùy sức nổ lực hy sinh cho xứ sở... Đó là cái Ân bất diệt thứ hai.
3/-
Ân Tam Bảo: Tam Bảo là gì ?...Tức là Phật, Pháp, Tăng. Con người nhờ
Tổ Tiê cha mẹ sanh ra nuôi dưỡng, nhờ đất nước tạo kiếp sống cho mình. Ấy về
phương diện vật chất.
Về
phương diện tinh thần , con người cần nhờ đến sự giúp đỡ của Phật, Pháp, Tăng,
khai mở trí óc cho sáng suốt nên ta hãy kính trọng Phật hãy tin tưởng và tín
nhiệm vào sự nghiệp cứu đời của Ngài...Đó là cái  bất diệt thứ ba.
4/-Ân
Đồng bào và nhân loại: Con người vừa mở mắt chào đời đã thấy mình phải nhờ
đến sự giúp đỡ của những kẻ xung quanh, và cái niên kỷ càng lớn thêm bao nhiêu,
sự nhờ nhõi càng tuần tự thêm bấy nhiêu.
Ta
nhờ hột cơm của họ ta mới sống, nhờ miếng vải của họ ta mới ấm thân, nhờ cửa
nhà của họ ta tránh được cơn phong vũ. Vui sướng ; ta đồng hưởng với họ. Hoạn
nạn; họ cùng chịu với ta... Đó là cái Ân bất diệt thứ tư.
Đúng
là 4 cái ân bất diệt như Đức Phật Thích Ca đã nói.
-Để chứng minh Đức Phật Thích Ca nói vị Phật ấy là Đức Huỳnh Giáo
Chủ, xin tuần tự lý giải theo khoa học biện chứng như sau:
IV/-Đức Phật Thích Ca nói với Ngài Ananda:
" Tông đồ của Đức Huỳnh Giáo Chủ hằng vạn, còn tông đồ của Đức Phật Thích
Ca suốt 45 năm truyền đạo mà chỉ có mấy ngàn.
Như
lời của Đức Phật Thích Ca nói với Ngài Ananda, Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ 19
tuổi, cái tuổi mà Phật Thích Ca còn là tư cách người phàm, Ngài không hề học
với bất cứ ai về một môn phái nào, thế mà Ngài tự đứng ra Khai Sáng lại "
Đạo Phật Thích Ca " đã và đang bị suy đồi, chỉ một năm đầu mà số tín đồ
tăng vọt gần hai triêu người, so với dân số Lục Châu Nam kỳ chỉ cò 4 triệu 6
trăm, 16 ngàn dân, trong lịch sử Tôn Giáo toàn cầu từ khi Đức Phật Thích Ca
nhập diệt tịch đến năm 2018, không có một ai ngoài Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo
Hòa Hảo, có số tín đồ một năm đầu quá kỷ lục và quá sự tưởng tượng của mọi
người như thế ?
TIÊN TRI DẢN SANH ĐỨC PHẬT THÍCH CA
Đức
Huỳnh Giáo Chủ dùng siêu hình thực nghiệm, chẳng những biết quy điều
vô vi của Phật Thích Ca đang thuyết và tiên tri Đản Sanh Đức Phật Thích Ca, đi
trước và đi xa hơn khoa học hiện tại, Ngài nói:
..." Có một điều già trẻ ân cần,
Là phải biết nguyên nhân Phật Giáo.
Hồi thế kỷ khoảng trong thứ sáu,
Trước kỷ nguyên tây lịch thời xưa.
Pháp giáo chưa biệt lập tam thừa,
Thuở Trung Quốc nhà Châu Chiêu Đế.
"...
Đên cuối năm 2015, khoa học
UNESCO mới khám phá ra một ngôi đền cổ nằm dưới ngôi đền hiện tại ổ Ấn Đô, khoa
học UNESCO mới xác nhận Đản Sanh Đức Phật Thích Ca hồi thế kỷ thứ 6, y như Đức
Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hp2a Hảo đã biết vế trước 2559 năm.
Đó mới dám nói Đức Huỳnh
Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo tiên tri đi trước và đi xa hơn khoa học hiện tại.
trong lúc, từ xưa nay, trong Đạo Phật Thích Ca phe nầy nói vầy, phe kia nói
khác, vì không có điểm cứ nên phe nào cũng nói phe ta nói đúng, còn phe kia nói
sai. Cụ Thể:
1/- Theo sách " Chúng thánh
điểm ký " thì nói năm sanh Đức Phật Thích Ca là năm 565 trước Công Nguyên.
2/- Còn các nhà khoa học
khảo cổ thì nói năm sanh Đức Phật Thích Ca là năm 563 trước Công Nguyên.
3/-Theo Phật Giáo Tích Lan
thì nói sanh Đức Phật Thích Ca vào năm 624 trước Công Nguyên.
4/- Phật Giáo Tây Tạng thì
nói sanh Đức Phật là năm 620 trước Công Nguyên.
5/-Phật Giáo ở phía Bắc Ấn
Độ thì nói sanh Đức Phật Thích Ca là năm 1028 trước kỷ nguyên vào đời vua Chiêu
vương nhà Chu.
6/-Còn bia ký ở Buddha Gaya
Ấn Độ có ghi sanh Đức Phật Thích Ca là năm 623 trước Công nguyên.
7/- Những nhà bác học thời
bấy giờ nói sanh Đức Phật Thích Ca vào năm 558 hay là 520 trước Công Nguyên.
Đức Huỳnh Giáo Chủ còn cho
biết khi Bà Hoàng Hậu bắt đầu có mang Thái Tử như sau:
..." Đêm trăng thanh gió mát
thảnh thơi,
Tiết hòa thuận khắp nơi hoa
nở.
Đức Hoàng hậu trong lòng hớn
hở,
Giấc chiêm bao bà thấy lạ
lùng.
Bạch tượng từ ở chốn không
trung,
Bổng sa xuống mình Bà hối
hả.
Vừa tỉnh giấc mơ tiên mới
lạ,
Khắp phòng huê thơm nức mùi
hương. "...
-Đức Huỳnh Giáo Chủ Đạo Phật Giáo
Hòa Hảo lại cho biết khi sanh Đức Phật Thích Ca với thời tiết như sau:
..." Ngày thắm thoát
đông qua hạ chí,
Bà trổ sanh thái tử đẹp tươi.
Mặt trang nghiêm khí phách hơn
người.
Vua cùng khắp thần dân mừng rỡ,
Họ Thích Ca từ đây cũng ngỡ.
Sẽ có người nối nghiệp hoàng
gia,
Liền đặt tên là Sĩ Đạt Ta.
"...
Đức Huỳnh Giáo Chủ Đạo Phật Giáo Hòa Hảo
dùng siêu hình thực nghiệm chẳng những đã biết khi sanh Đức Phật Thích Ca, Ngài
còn biết khi Bà Hoàng Hậu khi có mang và khi sanh Đức Phật Thích Ca như trên,
mà trong loài người kể cả các nhà khoa học chưa bao giờ biết, khi Bà Hoàng Hậu
đang có mang và khi sanh Thái Tử thời tiết ra sao ?
Đức Huỳnh Giáo Chủ xuất hiện trong thời kỳ khoa học phát triển
vượt bực, thuyết Cộng sản vô thần, chủ trương tiêu diệt các Tôn Giáo. Nên phải
lý giải theo khoa học biện chứng, chứ không phải như thời xa xưa loài người
khoa học chưa phát triển và chưa có thông tin Enternet toàn cầu, chỉ có một
nhóm người thành thế lực nói sao cũng được.
Ngày
nay khoa học đã phát triển vượt bực, nên nói về Tôn Giáo cũng phải lý giải theo
khoa học biện chứng mới bắt kịp với đà khoa học hiện đại và đối đầu được với
chủ thuyết Cộng sản vô thần. Bằng không thì phải bị khoa học thực tế đầy lùi
trong bóng đêm và chủ trương của Cộng sản tiêu diệt ngay một vài tháng của một
năm đầu, chứ đừng nói tồn tại mãi như Phật Giáo Hòa Hảo
BIẾT TRƯỚC 8 NĂM BIẾN CỐ ĐỐC VÀNG HẠ
---oOo---
Năm
1939, khi Đức Huỳnh Giáo Chủ mới xuất hiện Khai Sáng lại " Đạo
Phật Thích Ca " đã bị suy đồi, trong những lần thuyết giảng Ngài
đã nhiều lần nhắc đi, nhắc lại cho tín đồ biết trước khi biến cố Đốc Vàng Hạ
xảy ra, từ đó đến 8 năm sau ( 1939-1947= 8 năm ) biến cố Đốc Vàng Hạ thực
sự xảy ra. Nhưng tại sao Ngài phải chấp nhận sự biến cố đó để Ngài phải vắng
mặt, mà Việt Minh Cộng sản cũng như dư luận không tin Ngài còn sống, nhưng toàn
thể tín đồ vẫn tin Đức Huỳnh Giáo Chủ vẫn còn sống , xin chứng minh như Ngài
nói nhiều lần trong năm 1939 lại còn tự tay viết lại những lời Ngài báo trước
như sau:
…”
Trời thanh lặng gió đưa hiu hắt,
Ngồi
thơ phòng thân bắt lạnh lùng.
Gẩm
xác trần còn cách cội thung,
Đâu
có được giũ mùng quạt gió.
Cơn
mừng vui nào ngờ lũ ó,
Vội
bay ngang rồi sớt đi luôn.
Nào
phải giống chim muôn điểu thú. “…
Có
nghĩa là, khi biến cố Đốc Vàng Hạ ngày 25 tháng 2 năm Đinh Hợi, nhằm ngày 16
tháng 4 năm 1947, với những nhà chánh trị cách mạng yêu nước rất ngạc nhiên,
cho là bất ngờ. Vì khi Đức Huỳnh Giáo Chủ đang truyền đạo, Ngài từng hóa thân
từ trẻ thành già cho ông Quản Sáu xã Xua Đủa lớn Cần Thơ thấy, là một tên
Việt gian của Pháp lâu năm trong Ban Hội Tề, được Pháp đặt cử Ban Hội Tề theo
dõi quản thúc Ngài tại xã Xua Đủa Lớn Cần Thơ thấy, và cũng có lần Ngài hóa
thân một cô gái Tàu đứng trên lầu văn Phòng tại đường Miche Sai Gòn, khi Trần
Thanh Giàu thấy Ngài đang đứng chỗ lan can lầu, Trần Văn Giàu ra linh cho toán
Công an và y chạy lên bắt Ngài, nhưng khi lên lầu không thấy Ngài mà thấy một
cô gái Tàu không biết tiếng Việt, bọn chúng thất vọng ( thuật theo lời của nhà
văn lớn Hứa Hoành ) và nhiều lúc hóa thân khác nữa, mà tại sao Ngài lại bị
Bửu Vinh và Trần Văn Nguyên hại được Ngài ?.. Đó nên mọi người mới cho là sự
bất ngờ như trong lời tiên tri của Ngài vừa nêu trên.
“ Lũ Ó “ ở đây Đức Huỳnh Giáo Chủ muốn chỉ cho chúng sanh biết bọn
Việt Minh Cộng sản Hồ Chí Minh là loài cầm thú, hung ác, bạo tàn, nó không có
nhân nghĩa đạo đức con người.
”
Vội bay ngang rồi sớt đi luôn “, có nghĩa là khi biến cố Đốc Vàng Hạ Ngài vắng
mặt một cách nhanh chống, bất ngờ .
Đức
Huỳnh Giáo Chủ cho biết biến cố Đốc Vàng Hạ, Đồng Tháp Mười là lý do để Ngài
vâng lịnh trên trước sau khi Ngài phổ truyền xong giáo lý vô vi của lời Đức
Phật Thích Ca đang thuyết, cho bá tánh biết lo tu hành xong, thì Ngài phải trở
về thiên cung là cõi Phật, nhưng Ngài cũng buồn, vì loài người tàn bạo gây ra
chiến tranh cho bá tánh phải thảm khổ Ngài cho biết như sau:
…”
Rưng rưng nước mắt hai hàng,
Lánh
nơi cõi tục Phật đàng lui chơn “…
-Khi biến cố Đốc Vàng
Hạ Đức Huỳnh Giáo Chủ phải vắng mặt xa lánh trần thế , nhưng Ngài cũng không
quên khuyên bổn đạo của Ngài đừng vì sự tuyên truyền của Việt minh Cộng sản ám
hại được Ngài trong biến cố đó, mà không còn trì tâm tu hành, coi như bỏ đạo,
Ngài nói:
…”
Từ nay cách biệt xa ngàn,
Ai
người tâm đạo đừng toan phụ Thầy.
Giữa
chừng đờn nở đứt dây,
Chưa
vui buổi hiệp bổng Thầy lại xa.
Chứng tỏ Đức Huỳnh
Giáo Chủ đã biết trước khi biến cố Đốc Vàng Hạ xảy ra giữa chừng với bổn đạo của
Ngài, là sự bất ngờ của mọi người, nhưng Ngài phải chấp nhận để có lý do
vắng mặt trở về cõi Tây Phương Phật, rồi Ngài cũng trở lại như Ngài nói:
…”
Nay Thầy chịu lịnh về Tây,
Tạm
ngưng đạo đức ít ngày Thầy qua.
Thầy
về Tây, có nghĩa là Đức Huỳnh Giáo Chủ phải chấp nhận biến cố Đốc Vàng Hạ, để
có lý do vắng mặt trở về" Tây " là Tây Phương Phật, và có biến
cố Đốc Vàng Hạ để có bằng chứng với lịch sử, là Việt Minh Cộng sản giết
Phật Giáo Hòa Hảo chứ không phải Phật Giáo Hòa Hảo giết Việt Minh Cộng sản, như
Việt Minh Cộng sản tuyên truyền đổ tội cho Phật Giáo Hòa Hảo, mà Ngài đã chứng
minh nhiều lần, bọn chúng làm bộ không tin, nên Đức Huỳnh Giáo Chủ hối thúc bổn
đạo phải nghe lời dạy của Ngày, để chừng Ngài vắng mặt kiếm Thầy không ra, Đức
Huỳnh Giáo Chủ nói:
…”
Mùi đạo diệu chúng dân rán kiếm,
Trễ
thời kỳ khó gặp đặng Ta. “…
VÀ:
…”
Rán nghe lời dạy của Thầy,
Để
chừng đến việc kiếm Thầy khó ra.
Tây
Phương Thầy lại ở xa,
Nên
Ta mới nói cạn lời dân nghe.”…
Nhìn
qua mấy lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ nói trên đây, thì phải biết hiện nay Ngài
đang ở trên cõi Phật, xa lắm, chứ không phải như người ta tuyên truyền đã hại
được Ngài.
Khi biên cố Đốc Vàng Hạ xảy ra, tuy Ngài vắng mặt, nhưng Ngài vẫn
biết bá tánh chưng hửng và ngẩn ngơ, là tại vì từ trước đến lúc đó mọi người
không chịu xem kệ giảng của Ngài, nên không biết sự báo trước là như thế, Ngài
nói:
…”
Thấy trong bá tánh ngẩn ngơ,
Nay
Thầy xa tớ bơ vơ một mình.
Gẩm
trong hai chữ nhục vinh,
Xưa
nay thiên hạ kệ kinh ít dùng. “…
Đức Huỳnh Giáo Chủ
cũng cho biết bắt đầu hội nghị với Bửu Vinh, thì súng của bọn Việt Minh Cộng sản
bên ngoài bắn xối xả vào chỗ Ngài, túc đạn văng tứ tung như xác
pháo ngày tết âm lịch, Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết như sau:
…”
Buổi nhập tiệc trải qua tràng pháo,
Khói
mịt mù văng xác đầy đường.
Cuộc
đời như ngựa buông cương,
Khó
dừng lại vó cu lụp cụp.”…
”
Khó dừng lại vó cu lụp cụp “. có nghĩa là Việt Minh Cộng sản nghĩ rằng ám hại
Ngài được rồi, thì Phật Giáo Hòa Hảo như rắn mất đầu, tức nhiên phải rả tan,
không còn ai dám thù oán, trả thù bọn chúng, nhưng bọn Việt Minh Cộng sản
Hồ Chí Minh đã lầm, vì từ đấy bắt đầu Phật Giáo Hòa Hảo xô xác với Việt
Minh Cộng sản càng kinh hoàng hơn, toàn thể tín đồ, hể biết ai là Việt
minh Cộng sản là báo cho nhau bắt cho mò tôm ( bỏ vào bao bố neo đá liệng
xuống sông Cửu Long ), nên từ đó đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, Cộng sản không
dám xuất hiện hoạt động ở vùng Đạo Phật Giáo Hòa Hảo như tại Thủ Đô Sài Gòn của
các vị nguyên thủ quốc gia ngự trị. Đó là chưa nói các tỉnh khác do các vị
nguyên thủ quốc gia có trách nhiêm bình định cho dân chúng còn thậm tệ hơn.
Tuy nhiên Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng xác quyết sau nầy Ngài sẽ trở
lại, lúc đó Ngài nói sơ mà chư bang hàng phục. Vì Ngài hứa Ngài sẽ trở lại với
hình dáng cũ là chuyện khó tin, nên khi Ngài xuất hiện trở lại Ngài chỉ nói
chơi thôi là cả thế giới phải ngạc nhiên,thì chư bang phải hàng phục. Thử nghĩ,
sau nầy Đức Huỳnh Gáo Chủ trở về với hình dáng cũ như Ngài về năm 1995 với lời
hứa với Bà Hương Bộ Thạnh chết thì Ngài về, đúng 50 năm, từ năm 1945 Ngài đi
khuyến nông, đến năm 1995, khi Bà Hương Bộ Thạnh chết Ngài về với hình dáng cũ
và ngồi ăn cơm chung với năm sáu người khoảng 3 giờ đồng hồ, để mọi người
nhìn cho rõ. Ngài trở lại bằng hình dáng củ , sau nầy Ngài cũng trở về như năm
1995 khi bà Hương Bộ Thạnh chết, thí loài người ai mà không thán phục, Ngài
cho biết sau đây:
…”
Ít lâu Ta cũng trở về,
Khuyên
cùng bổn đạo chớ hề lãng xao.
Trì
lòng chớ có núng nao,
Từ
đây nhơn vật mòn hao lần lần.”
*- Đức Huỳnh Giáo Chủ đã biết
trước 8 năm ( 1939-1947=8 năm ), khi biến cố Đốc Vàng Hạ xảy ra người ta loan
tin Ngài đã chết, mà chính Đức Huỳnh Giáo Chủ đã biết trước như vậy, thì
ai hại được Ngài, nhưng đó là lý do Ngài phải vắng mặt theo lịnh trên trước
trong hoàn cảnh Việt Minh Cộng sản giết Phật Giáo Hòa Hảo và Việt Nam Dân Xã Đảng
ngày càng gia tăng khủng khiếp, Việt Minh Cộng sản giết thả trôi bèo sông Cửu
Long ( Sông Tiền và Sông Hậu ), mà bọn Việt Minh Cộng sản cứ đổ tội Phật Giáo
Hòa Hảo và Việt Nam Dân Xã Đảng giết Việt Minh Cộng sản, mà Ngài chứng minh,
nhưng bọn chúng giả đò không tin, nên còn chỉ có cách hóa thân cho lịch sử kết
tội Việt Minh Cộng sản giết Phật Giáo Hòa Hảo chứ không ai nói Phật Giáo Hòa Hảo
giết Việt Minh Cộng sản bao giờ ?.. Mặc dầu sau đó Phật Giáo Hòa Hảo xô xác với
Việt Minh Cộng sản một cách khủng khiếp, Việt Minh Cộng sản Hồ Chí Minh không
ngờ tình thế xảy ra như vậy, khi đó Việt Minh Cộng sản và lịch sử không nói tại
Đức Huỳnh Giáo Chủ chủ trương được, vì Ngài đã vắng mặt rồi.
Đức Huỳnh Giáo Chủ TIÊN TRI THẾ CHIẾN THỨ
HAI
Khi bắt đầu bùng nổ và
khi kết thúc
---oOo---
---oOo---
Nhìn
lại lịch sử Đạo Phật từ khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt tịch đến đời vua Tự
Đức, trong Đạo Phật chỉ có Thiền Sư và 33 đời Tổ, mãi đến năm 2018, trong
khoảng thời gian dài đó, có Ông Đoàn Minh Huyên là Phật Thầy Tây An, danh hiệu
thì Bửu Sơn Kỳ Hương, chứ chưa phải " Đạo hiệu là Phật " như Đức Phật
Thích Ca đã nói. Mặc dù Phật Thầy Tây An là tiền thân của Đức Huỳnh Giáo Chủ,
nhưng đó là những thời kỳ chưa được chánh danh, vì nhiều người Việt Nam làm Việt gian cho Pháp
theo dõi gắt gao, do đó, là thời kỳ chỉ khai thị
Pháp môn, để đi đến Đạo Hiệu là " Phật Giáo Hòa Hảo " .
Nên
hiểu, khi có " Đạo Hiệu " thì vị Phật đó phải có giáo lý siêu mầu,
ngoài cách dạy đạo tu hành, giáo lý còn phải ẩn ý tiên tri thời cuộc bản xứ và
thời sự thế giới như của Đức Huỳnh Giáo Chủ, mà người phàm tục dù học thức khoa
bảng cỡ nào, cũng không một ai viết được giáo lý như của Đức Huỳnh Giáo Chủ
Phật Giáo Hòa Hảo ? Đó mới gọi là " Đạo Hiệu ".
Để
biết rõ Đức Huỳnh Giáo Chủ tiên tri đi trước và đi xa hơn khoa học hiện đại,
chúng ta thử nhìn lại Đức Huỳnh Giáo Chủ đã tiên tri thế chiến thứ hai, một
cuộc chiến tranh lớn nhứt toàn cầu từ xưa nay , tại 4 Châu: Châu Âu, Châu Á,
Châu Úc và Châu Phi như Ngài nói:
..." Mèo kêu bá tánh lao xao,
Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê.
Con ngựa lại đá con dê,
Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao.
Khỉ kia cũng bị xáo xào,
Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng "...
..." Mèo kêu bá tánh lao xao,
Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê.
Con ngựa lại đá con dê,
Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao.
Khỉ kia cũng bị xáo xào,
Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng "...
Xin tạm lý giải theo khoa học
biện chứng như sau:
1/- " Mèo kêu bá tánh lao xao ", Mèo là năm 1939, thế chiến thứ hai bắt đầu bùng nổ, khi Anh và Pháp tuyên chiến với Đức ngày 3 tháng 9 năm 1939.
Ngày 28 tháng 9 năm 1939, Nga và Đức xâm lăng Ba Lan, ký Hiệp Ước chia đôi nước Ba Lan !
2/- "Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê." Rồng là năm 1940, ngày 10 tháng 6 năm 1940, Ý tuyên chiến với Pháp và Anh.
Ngày 18 tháng 6 năm 1940, Trục, Đức, Ý Nhựt tham chiến
3/- " Rắn là năm 1941, ngày 7 tháng 12 năm 1941, Hoa Kỳ và Trung Hoa nhảy vào cuộc chiến, chống Trục, Đức, Ý, Nhựt. Từ đó chiến tranh nổ lớn trong 4 Châu là Châu Âu, Châu Á, Châu Úc và Châu Phi. loài người chết vô số, nên Đức Huỳnh Giáo Chủ nói " chỉn ghê " không sai.
4/-" Con ngựa lại đá con dê ", Năm ngựa là năm 1942, con dê là năm 1943, khi con ngựa nó đá là nó dùng chân sau, ám chỉ là cuối năm con ngựa ( 1942 ) đầu năm con dê ( 1943 ), là chiến tranh lan tràn, chết chốc dân chúng đồ khổ !
1/- " Mèo kêu bá tánh lao xao ", Mèo là năm 1939, thế chiến thứ hai bắt đầu bùng nổ, khi Anh và Pháp tuyên chiến với Đức ngày 3 tháng 9 năm 1939.
Ngày 28 tháng 9 năm 1939, Nga và Đức xâm lăng Ba Lan, ký Hiệp Ước chia đôi nước Ba Lan !
2/- "Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê." Rồng là năm 1940, ngày 10 tháng 6 năm 1940, Ý tuyên chiến với Pháp và Anh.
Ngày 18 tháng 6 năm 1940, Trục, Đức, Ý Nhựt tham chiến
3/- " Rắn là năm 1941, ngày 7 tháng 12 năm 1941, Hoa Kỳ và Trung Hoa nhảy vào cuộc chiến, chống Trục, Đức, Ý, Nhựt. Từ đó chiến tranh nổ lớn trong 4 Châu là Châu Âu, Châu Á, Châu Úc và Châu Phi. loài người chết vô số, nên Đức Huỳnh Giáo Chủ nói " chỉn ghê " không sai.
4/-" Con ngựa lại đá con dê ", Năm ngựa là năm 1942, con dê là năm 1943, khi con ngựa nó đá là nó dùng chân sau, ám chỉ là cuối năm con ngựa ( 1942 ) đầu năm con dê ( 1943 ), là chiến tranh lan tràn, chết chốc dân chúng đồ khổ !
5/- " Khỉ kia cũng bị
xáo xào ", Khỉ là năm 1944, xáo xào là chiến trang giết qua giết lại; ví
như người ta đang xào nồi thịt, người ta trộn lên, trộn xuống, những miếng thịt
trong nồi không yên.
6/- " Canh khuya gà gáy
máu đào mới ngưng ". Gà là năm 1945, Canh khuya là canh cuối trong một đêm
có năm canh, ám chỉ là cuối năm Dậu 1945, Nhựt bị hai quả bom nguyên tử, làm
cho Nhựt Hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, từ đó chiến tranh thứ hai mới chấm
dứt.
Từ
năm 1939 đến năm 2018, loài người trên quả địa cầu nầy, kể cả các nhà khoa học,
chưa có một ai cho biết trước một cuộc chiến nào khi xảy ra và khi kết thúc như
Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo, đã tiên tri thế chiến thứ Hai ?
TIÊN TRI KHÍ HẬU HÂM NÓNG TOÀN CẦU
Về
khí hậu hâm nóng toàn cầu cũng nằm trong lời Đức Phật Thích Ca nói , Đức Huỳnh
Giáo Chủ biết rõ càn khôn vũ trụ; nên cần phải nói thêm để thấy rõ Đức Huỳnh
Giáo Chủ biết rõ càn khôn vũ trụ như Đức Phật Thích Ca nói như sau :
..."
Trời dông gió sái mùa sái tiết,
Nắng cùng mưa cũng khác xưa rồi.
Và:
Ngọn thủy triều trái đất sụt sôi,
Và:
Ngọn thủy triều trái đất sụt sôi,
Bầu
trái đất một phen luân chuyển. "...
-Hai
câu trên đây là Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ rõ về khí hậu hâm nóng toàn cầu, Ngài
nói từ ngày 20 tháng 9 năm Kỷ Mão 1939, đến năm 2006, là 67 năm sau các nhà
khoa học Hoa Kỳ mới khám phá ra sự nguy hiểm khí hậu hâm nóng toàn cầu. Từ đó,
các nhà khoa học thế giới mới biết sự nguy hiểm khí hậu hâm nóng toàn cầu, là
do chất phế thải của các quốc gia kỹ nghệ, mà báo động tình trạng khí hậu hâm
nóng toàn cầu, trở thành mối lo ngại lớn trong loài người.
Ngày 21 tháng 11 năm 2011 Diễn Đàn bàn về biến đổi khí hậu tổ chức tại Dhata Thủ Đô Bangladesh có sự tham dự của 30 quốc gia.
Tổng thư ký liên hiệp quốc ông Ban Ki Moon tại diễn đàn Dhata Bangladesh, ông cho rằng, nếu con người sẵn sàng đối phó trước những hiện tượng được cảnh báo như thế có thể tránh được những nổi khốn khó, tồi tệ hơn trong tương lai, về sự nguy hiểm khí hậu hâm nóng toàn cầu.
..." Chúng ta sẽ đối phó với nguy cơ biến đổi khí hậu, vì chúng ta biết rằng nếu không làm như thế thì chúng ta sẽ phản bội con cháu chúng ta và thế hệ tương lai"... Khoảng tháng 5 năm 2016, Tổ chức Y Tế thế giới ( WHO ), cho biết khí hậu Ô Nhiễm hâm nóng toàn cầu làm chết ba triệu người mỗi năm, vì ô nhiễm không khí tại các nước nghèo gồm Ấn Độ và Iran.
Ngày 14 tháng 7 năm 2017, Ngân hàng phát triển Châu Á -ADB ra phúc trình với cảnh báo, nếu tiếp tục hoạt động như lâu nay, thì tình trạng biến đổi khí hậu sẽ có tác động " thảm họa " đối với Châu Á; xóa bỏ nhiều thành tựu tăng trưởng kinh tế đáng kể giúp chống nghèo đói tại lục địa này.
Theo phúc trình được đưa ra thì vào cuối thế kỷ 21 này , nhiệt độ nhiều vùng của Châu Á có thể tăng đấn mức 8 oC cao hơn so với thời kỳ tiền công nghiệp trong khi nhiệt độ trung bình toàn cầu chỉ chỉ tăng chừng phân nửa con số đó mà thôi.
Theo ADB việc tiếp tục lệ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch thì lục địa Châu Á với số dân đông nhất thế giới như hiện nay sẽ phải đối diện với những đợt nắng nóng kéo dài, nước biển dâng dạng thức mưa thay đổi dần đến những đột biến trong hệ sinh thái, gây hại cho sinh kế và có thể cả chiến tranh.
Nội trong thế kỷ 21, nước biển tại Châu Á nói chung sẽ tăng chừng 1,4 mét. Đây là mức độ cho là gắp đôi được dự đoán theo kịch bản đưa ra theo thỏa thuận Paris 2015.
Thỏa ước về khí hậu đạt được ở Paris vào cuối năm 2015 với cam kết giữ nhiệt độ Trái Đất dưới mức 2 oC so với thời kỳ tiền công nghiệp. Lý do nếu để tăng lên 2 oC thì sẽ khó kiểm soát.
Theo giới chuyên môn thì mức tăng đến 4 oC sẽ là nguyên nhân đưa đến nhiều thảm họa cho con người tại nhiều quốc gia trên trái đất; từ đó tạo nên những làn sóng di dân không thể quản nổi.
Ngày 21 tháng 11 năm 2011 Diễn Đàn bàn về biến đổi khí hậu tổ chức tại Dhata Thủ Đô Bangladesh có sự tham dự của 30 quốc gia.
Tổng thư ký liên hiệp quốc ông Ban Ki Moon tại diễn đàn Dhata Bangladesh, ông cho rằng, nếu con người sẵn sàng đối phó trước những hiện tượng được cảnh báo như thế có thể tránh được những nổi khốn khó, tồi tệ hơn trong tương lai, về sự nguy hiểm khí hậu hâm nóng toàn cầu.
..." Chúng ta sẽ đối phó với nguy cơ biến đổi khí hậu, vì chúng ta biết rằng nếu không làm như thế thì chúng ta sẽ phản bội con cháu chúng ta và thế hệ tương lai"... Khoảng tháng 5 năm 2016, Tổ chức Y Tế thế giới ( WHO ), cho biết khí hậu Ô Nhiễm hâm nóng toàn cầu làm chết ba triệu người mỗi năm, vì ô nhiễm không khí tại các nước nghèo gồm Ấn Độ và Iran.
Ngày 14 tháng 7 năm 2017, Ngân hàng phát triển Châu Á -ADB ra phúc trình với cảnh báo, nếu tiếp tục hoạt động như lâu nay, thì tình trạng biến đổi khí hậu sẽ có tác động " thảm họa " đối với Châu Á; xóa bỏ nhiều thành tựu tăng trưởng kinh tế đáng kể giúp chống nghèo đói tại lục địa này.
Theo phúc trình được đưa ra thì vào cuối thế kỷ 21 này , nhiệt độ nhiều vùng của Châu Á có thể tăng đấn mức 8 oC cao hơn so với thời kỳ tiền công nghiệp trong khi nhiệt độ trung bình toàn cầu chỉ chỉ tăng chừng phân nửa con số đó mà thôi.
Theo ADB việc tiếp tục lệ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch thì lục địa Châu Á với số dân đông nhất thế giới như hiện nay sẽ phải đối diện với những đợt nắng nóng kéo dài, nước biển dâng dạng thức mưa thay đổi dần đến những đột biến trong hệ sinh thái, gây hại cho sinh kế và có thể cả chiến tranh.
Nội trong thế kỷ 21, nước biển tại Châu Á nói chung sẽ tăng chừng 1,4 mét. Đây là mức độ cho là gắp đôi được dự đoán theo kịch bản đưa ra theo thỏa thuận Paris 2015.
Thỏa ước về khí hậu đạt được ở Paris vào cuối năm 2015 với cam kết giữ nhiệt độ Trái Đất dưới mức 2 oC so với thời kỳ tiền công nghiệp. Lý do nếu để tăng lên 2 oC thì sẽ khó kiểm soát.
Theo giới chuyên môn thì mức tăng đến 4 oC sẽ là nguyên nhân đưa đến nhiều thảm họa cho con người tại nhiều quốc gia trên trái đất; từ đó tạo nên những làn sóng di dân không thể quản nổi.
Nếu
theo kịch bản cứ tiếp tục mọi hoạt động kinh doanh như lâu nay thì sẽ dẫn đến
những tác động thảm họa đối với người dân CHâu Á và Thái Bình Dương ; đặc biệt
giới dân chúng nghèo khổ, dễ bị thương tổn ( trích nguyên văn Đài Á Châu Tự Do
).
CÒN TIẾP
California, ngày 14 tháng 11 năm 2018
Huỳnh Kim
__._,_.___
ĐỂ HIỂU PHẬT GIÁO HÒA HẢO
ĐỂ HIỂU PHẬT GIÁO HÒA HẢO
Muốn biết căn nguyên Đạo Phật Giáo Hòa Hảo, thì phải nhìn lại sơ
lược lịch sử của Đức Phật Thích Ca, mới biết tại sao Đức Huỳnh Phú Sổ, từ nhỏ
đến 19 tuổi không hề học với ai bất cứ một môn phái nào, mà đứng ra Khai Sáng
lại Đạo Phật Thích Ca đang bị tà thần lấn áp suy đồi, tuột dốc tột cùng;
mà từ ngàn xưa trong Đạo Phật Thích Ca từ Thiền Sư đến 33 đời Tổ, chưa một vị
nào chấn chỉnh được ?
ĐẠO
PHẬT THÍCH CA
CỦA THÁI TỬ SĨ ĐẠT TA
CỦA THÁI TỬ SĨ ĐẠT TA
Nói đến Đạo Phật Thích Ca thì phải nghĩ lại xã hội Ấn Độ, là một
quốc gia thời đó luật lệ rời rạc và mâu thuẩn, xã hội gồm 5 giai cấp khinh miệt
nhau như thú vật là:
1/-Giai cấp Bà La Môn tự nhận là hàng cao thượng.
2/-Giai cấp hàng Vua Chúa, tự coi mình là cha mẹ dân.
3/-Giai cấp xá phệ tự coi minh hàng thương gia giàu có.
4/-Giai cấp Phan hạng là hà tiện nô lệ
5/-Giai cấp giống Ha Ba Ria bị các giai cấp khác khinh miệt như thú vật.
-Xã hội Ấn Độ lúc nầy giai cấp là quan trọng trật tự ở Ấn Độ.
Về nghi lễ hội hè dân chúng thường có thói quen giết thú vật như, trâu, bò, ngựa và cả mạng người để tế thần !..
Trật tự xã hội chưa phát triển để đủ khả năng cải tổ cơ cấu điều hành dân tộc tiến bộ. .
Trong hoàn cảnh đó, tại Ca Tỳ La Vệ hiện nay là biên giới giửa Népan và Ấn Độ, Đức Phật lâm phàm hóa hiện làm người , con vua Tịnh Phạn ( Suddhodana ) và Hoàng Hậu Maha Maya ( Ma Da ), vào ngày mùng 8 tháng tư hồi thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên.
Sanh Thái Tử được bảy ngày thì bà Hoàng Hậu quy tiên, nhờ bà dì thay thế mẹ hiền, chăm sóc Thái Tử đến lớn.
Đứng trước hoàn cảnh xã hội rối ren dân chúng tuyệt vọng, tại Ca Tỳ La Vệ ( Kapilavastu ) phía Bắc Ấn Độ vua Tịnh Phạn nhân từ trị vì Thị Tộc Thích Ca thuộc giống Á Lợi Óc, Kasala, Bà Hoàng Hậu Mada trong một giấc chiêm bao thấy bạch tượng trên không trung sa xuống mình Bà, Bà tỉnh giấc rảo chân bước ra vườn truyền thị vệ thỉnh vua cho Bà gặp để thuật lại giấc chiêm bao.
Thời buổi ấy, vua Tịnh Phạn ưa người đạo, liền truyền mời các thầy bàn vào cung, các thầy bàn đều cho biết là điềm quý, sẽ sanh con thế giới không bằng , Ngài sẽ là một vị vua đứng đầu các vua, một vị chúa tể của loài người, một vị chúa tể vĩ đại và tôn nghiêm sẽ ngự trị khắp địa cầu với tất cả muôn vật ở thế gian.
Thấm thoát Bà Hoàng Hậu trổ sanh Thái Tử, đặt tên là Sĩ Đạt Ta ( Tất Đạt Ta ), họ là Cồ Đàm, có nhà sư cách thành mấy dậm , Ông là người Đạo Bà La Môn Tiên , ăn ở sạch sẽ hiền lành, tu hành tinh tấn, hiểu thiên cơ thấu cả nhiệm mầu, đến xin vua cho vào trong yết kiến Tử Hoàng, được sự chấp thuận vào yết kiến xong ông tỏ vẻ buồn rầu, vua bèn hỏi, ông cho biết Tử Hoàng sẽ là Phật của thế giới, nhưng buồn vì ông tuổi cao, sức yếu không thể được sống để nghe lời Phật thuyết !..
Theo sách truyền, khi Thái Tử 7 tuổi được học với các Thầy giáo giỏi nhứt trong nước, được mời vào cung dạy Thái Tử, từ 7 tuổi đến 12 tuổi Thái Tử đã học thông thạo 5 môn học theo thế gian như:
1/-Ngôn ngữ học, 2/-Công Kỹ Nghệ, 3/-Luân lý học, 4/-Y Học, 5/-Đạo học. Còn thông thạo 4 sách Veda và các sách của Bà La Môn.
Đến 13 tuổi học võ thuật theo truyền thống đẳng cấp võ tướng Ksatryyas, về môn bắn cung, Thái Tử bắn một mũi tên thủng qua 7 lớp trống đồng, trong khi cuộc hội thi với Thái Tử người giỏi nhứt chỉ bắn thủng một lớp trống đồng mà thôi.
Khi đến 16 tuổi, vua cha hội hoàng cung chọn công chúa Yasodlhara ( Da du đà la ), cùng một lứa tuổi cưới cho Thái Tử, sống hạnh phúc trong cung điện, có sanh được một người con. Thái Tử chưa hề biết gì cuộc sống khổ bất hạnh của người đời.
Sau khi Thái Tử du ngoạn ngoài thành thấy người bịnh, già, một xác chết với một nhà sư tu hành, Thái Tử thốt lên " Đời là bể khổ ! " Người ta không ai tránh khỏi những sự khổ não như sinh. lão. bịnh. tử, cho nên Thái Tử lìa bỏ đền đài, cung điện, vợ đẹp con cưng, vua cha quyền thế, đi tầm đạo tu giải thoát để lưu truyền cho loài người, lúc ấy Ngài 19 tuổi, là một sự hy sinh, buông xả vĩ đại, có một không hai trong lịch sử loài người, để lưu truyền gương sáng cho nhân loại, nhứt là thức tỉnh cho 5 giai cấp tại Ấn Độ không nên phân biệt giàu, nghèo, sang hèn, khinh khi người nghèo khó, tật nguyền...Vì chính Thái Tử sẽ là vua muôn dân mà còn xả bỏ tất cả, để tầm đạo tu hành giải thoát dẫn dắt chúng sanh.
Thái Tử đi tu trong 6 năm dài khổ hạnh theo lối tu ép xác của các đạo sĩ Ấn Độ nghiêm khắc, làm cho Thái Tử gầy ốm, nhưng Thái Tử trấn tĩnh được tâm trí và ngự trị tinh thần , Thái Tử quyết đi tìm giác ngộ mà không thấy, Thái Tử nhận định được rằng không thể nào tìm thấy chân lý bằng cách tu ép xác, chịu đau đớn khổ hạnh, làm cho thân thể suy nhược, nên Thái Tử quyết ăn uống trở lại, sau khi được ăn bát cháo của nữ Tỳ Su Già Ta, một thiếu nữ giàu có nhưng rất mộ đạo tu hành , Thái Tử thấy trong người khỏe mạnh.
Thái Tử ngồi xếp bằng dưới một gốc cây Pippala gọi là cây Bồ Đề, gặp phải loài quỉ vương khuấy phá, từ hành động thiện và ác, cám dỗ Thái Tử bỏ ý định sẽ là vị cứu tinh của nhân loại, để quay về với đời sống xa hoa. Nhưng Thái Tử quyết phấn đấu và kiên trì với quyết định tìm chân lý, đến lúc Ngài được trông sáng, như Ngài nhìn thấy rõ những kiếp sống trước đó của Ngài, một kiếp, hai kiếp đến hằng ngàn kiếp...Ngài nhớ lại và thấy rõ các chu kỳ thành hoại của một thế giới, đến nhiều thế giới.
Ngài thấy rõ các chúng sanh tùy theo nghiệp chướng nặng nhẹ, thiện ác mà mỗi người phải luân hồi như thế nào trong các cõi sống.
Sau cùng chân lý từ thiện của Thái Tử đã thắng, Thái Tử Sĩ Đạt ta đã thành Phật toàn năng, toàn giác lúc Ngài 35 tuổi, là Phật Thích Ca.
Ngay khi đắc đạo thành Phật, Đức Phật Thích Ca quyết định ở lại trần thế thuyết giảng dạy đạo cách tu hành giải thoát cho nhân loại.
Chính vì sự quyết định đó, Đức Phật Thích Ca Khai Sáng Đạo Phật tại Ấn Độ, mà trước đó Phật Giáo chưa biệt lập Tam Thừa, tức là chưa phân biệt " Phật, Pháp, Tăng "; một tôn giáo chủ trương từ bi, hỉ xả, dạy người đời coi mọi việc trong xã hội loài người đều là ảo ảnh, là giả tạm, cần phải xả bỏ tất cả lo hành thiện, bố thí diệt trừ tham lam để được giải thoát về cỏi thiêng liêng( Phật ).
Sau 45 năm chu du thuyết đạo tại miền Đông Bắc Ấn Độ, Ngài giáo hóa, độ sanh đã hoàn thành, một ngày nọ Ngài kêu Ngài Ananda lại nói : Còn ba tháng nữa Ta sẽ nhập diệt tịch.
1/-Giai cấp Bà La Môn tự nhận là hàng cao thượng.
2/-Giai cấp hàng Vua Chúa, tự coi mình là cha mẹ dân.
3/-Giai cấp xá phệ tự coi minh hàng thương gia giàu có.
4/-Giai cấp Phan hạng là hà tiện nô lệ
5/-Giai cấp giống Ha Ba Ria bị các giai cấp khác khinh miệt như thú vật.
-Xã hội Ấn Độ lúc nầy giai cấp là quan trọng trật tự ở Ấn Độ.
Về nghi lễ hội hè dân chúng thường có thói quen giết thú vật như, trâu, bò, ngựa và cả mạng người để tế thần !..
Trật tự xã hội chưa phát triển để đủ khả năng cải tổ cơ cấu điều hành dân tộc tiến bộ. .
Trong hoàn cảnh đó, tại Ca Tỳ La Vệ hiện nay là biên giới giửa Népan và Ấn Độ, Đức Phật lâm phàm hóa hiện làm người , con vua Tịnh Phạn ( Suddhodana ) và Hoàng Hậu Maha Maya ( Ma Da ), vào ngày mùng 8 tháng tư hồi thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên.
Sanh Thái Tử được bảy ngày thì bà Hoàng Hậu quy tiên, nhờ bà dì thay thế mẹ hiền, chăm sóc Thái Tử đến lớn.
Đứng trước hoàn cảnh xã hội rối ren dân chúng tuyệt vọng, tại Ca Tỳ La Vệ ( Kapilavastu ) phía Bắc Ấn Độ vua Tịnh Phạn nhân từ trị vì Thị Tộc Thích Ca thuộc giống Á Lợi Óc, Kasala, Bà Hoàng Hậu Mada trong một giấc chiêm bao thấy bạch tượng trên không trung sa xuống mình Bà, Bà tỉnh giấc rảo chân bước ra vườn truyền thị vệ thỉnh vua cho Bà gặp để thuật lại giấc chiêm bao.
Thời buổi ấy, vua Tịnh Phạn ưa người đạo, liền truyền mời các thầy bàn vào cung, các thầy bàn đều cho biết là điềm quý, sẽ sanh con thế giới không bằng , Ngài sẽ là một vị vua đứng đầu các vua, một vị chúa tể của loài người, một vị chúa tể vĩ đại và tôn nghiêm sẽ ngự trị khắp địa cầu với tất cả muôn vật ở thế gian.
Thấm thoát Bà Hoàng Hậu trổ sanh Thái Tử, đặt tên là Sĩ Đạt Ta ( Tất Đạt Ta ), họ là Cồ Đàm, có nhà sư cách thành mấy dậm , Ông là người Đạo Bà La Môn Tiên , ăn ở sạch sẽ hiền lành, tu hành tinh tấn, hiểu thiên cơ thấu cả nhiệm mầu, đến xin vua cho vào trong yết kiến Tử Hoàng, được sự chấp thuận vào yết kiến xong ông tỏ vẻ buồn rầu, vua bèn hỏi, ông cho biết Tử Hoàng sẽ là Phật của thế giới, nhưng buồn vì ông tuổi cao, sức yếu không thể được sống để nghe lời Phật thuyết !..
Theo sách truyền, khi Thái Tử 7 tuổi được học với các Thầy giáo giỏi nhứt trong nước, được mời vào cung dạy Thái Tử, từ 7 tuổi đến 12 tuổi Thái Tử đã học thông thạo 5 môn học theo thế gian như:
1/-Ngôn ngữ học, 2/-Công Kỹ Nghệ, 3/-Luân lý học, 4/-Y Học, 5/-Đạo học. Còn thông thạo 4 sách Veda và các sách của Bà La Môn.
Đến 13 tuổi học võ thuật theo truyền thống đẳng cấp võ tướng Ksatryyas, về môn bắn cung, Thái Tử bắn một mũi tên thủng qua 7 lớp trống đồng, trong khi cuộc hội thi với Thái Tử người giỏi nhứt chỉ bắn thủng một lớp trống đồng mà thôi.
Khi đến 16 tuổi, vua cha hội hoàng cung chọn công chúa Yasodlhara ( Da du đà la ), cùng một lứa tuổi cưới cho Thái Tử, sống hạnh phúc trong cung điện, có sanh được một người con. Thái Tử chưa hề biết gì cuộc sống khổ bất hạnh của người đời.
Sau khi Thái Tử du ngoạn ngoài thành thấy người bịnh, già, một xác chết với một nhà sư tu hành, Thái Tử thốt lên " Đời là bể khổ ! " Người ta không ai tránh khỏi những sự khổ não như sinh. lão. bịnh. tử, cho nên Thái Tử lìa bỏ đền đài, cung điện, vợ đẹp con cưng, vua cha quyền thế, đi tầm đạo tu giải thoát để lưu truyền cho loài người, lúc ấy Ngài 19 tuổi, là một sự hy sinh, buông xả vĩ đại, có một không hai trong lịch sử loài người, để lưu truyền gương sáng cho nhân loại, nhứt là thức tỉnh cho 5 giai cấp tại Ấn Độ không nên phân biệt giàu, nghèo, sang hèn, khinh khi người nghèo khó, tật nguyền...Vì chính Thái Tử sẽ là vua muôn dân mà còn xả bỏ tất cả, để tầm đạo tu hành giải thoát dẫn dắt chúng sanh.
Thái Tử đi tu trong 6 năm dài khổ hạnh theo lối tu ép xác của các đạo sĩ Ấn Độ nghiêm khắc, làm cho Thái Tử gầy ốm, nhưng Thái Tử trấn tĩnh được tâm trí và ngự trị tinh thần , Thái Tử quyết đi tìm giác ngộ mà không thấy, Thái Tử nhận định được rằng không thể nào tìm thấy chân lý bằng cách tu ép xác, chịu đau đớn khổ hạnh, làm cho thân thể suy nhược, nên Thái Tử quyết ăn uống trở lại, sau khi được ăn bát cháo của nữ Tỳ Su Già Ta, một thiếu nữ giàu có nhưng rất mộ đạo tu hành , Thái Tử thấy trong người khỏe mạnh.
Thái Tử ngồi xếp bằng dưới một gốc cây Pippala gọi là cây Bồ Đề, gặp phải loài quỉ vương khuấy phá, từ hành động thiện và ác, cám dỗ Thái Tử bỏ ý định sẽ là vị cứu tinh của nhân loại, để quay về với đời sống xa hoa. Nhưng Thái Tử quyết phấn đấu và kiên trì với quyết định tìm chân lý, đến lúc Ngài được trông sáng, như Ngài nhìn thấy rõ những kiếp sống trước đó của Ngài, một kiếp, hai kiếp đến hằng ngàn kiếp...Ngài nhớ lại và thấy rõ các chu kỳ thành hoại của một thế giới, đến nhiều thế giới.
Ngài thấy rõ các chúng sanh tùy theo nghiệp chướng nặng nhẹ, thiện ác mà mỗi người phải luân hồi như thế nào trong các cõi sống.
Sau cùng chân lý từ thiện của Thái Tử đã thắng, Thái Tử Sĩ Đạt ta đã thành Phật toàn năng, toàn giác lúc Ngài 35 tuổi, là Phật Thích Ca.
Ngay khi đắc đạo thành Phật, Đức Phật Thích Ca quyết định ở lại trần thế thuyết giảng dạy đạo cách tu hành giải thoát cho nhân loại.
Chính vì sự quyết định đó, Đức Phật Thích Ca Khai Sáng Đạo Phật tại Ấn Độ, mà trước đó Phật Giáo chưa biệt lập Tam Thừa, tức là chưa phân biệt " Phật, Pháp, Tăng "; một tôn giáo chủ trương từ bi, hỉ xả, dạy người đời coi mọi việc trong xã hội loài người đều là ảo ảnh, là giả tạm, cần phải xả bỏ tất cả lo hành thiện, bố thí diệt trừ tham lam để được giải thoát về cỏi thiêng liêng( Phật ).
Sau 45 năm chu du thuyết đạo tại miền Đông Bắc Ấn Độ, Ngài giáo hóa, độ sanh đã hoàn thành, một ngày nọ Ngài kêu Ngài Ananda lại nói : Còn ba tháng nữa Ta sẽ nhập diệt tịch.
Ngài Ananda khóc quẹt nước mắt hỏi Đức Phật Thích Ca:
Thế Tôn nhập diệt tịch còn ai giáo hóa cúng con ?
Đức Phật Thích Ca đáp: Ta không phải vị Phật đầu tiên giáng thế,
cũng không phải một vị Phật cuối cùng, khi cần sẽ có một vị Phật khác giáng thế
trên thế giới.( Có nghĩa là mỗi thời kỳ loài người biến đổi,điên đảo, thì sẽ có
một vị thiêng liêng giáng thế, đến thời kỳ khác thì có một vị khác giáng thế phổ
truyền chân lý vô vi trở lại cho phù hợp với thời kỳ đó...
Ngài Ananda hỏi tiếp: Làm sao biết vị ấy là Phật ?
Đức Phật Thích Ca đáp: Vị Phật ấy chí tôn, chí tuệ, hành vi đạo
đức, đem lại điềm lành, biết rõ càn khôn vũ trụ, một vị lãnh đạo vô song của
loài người, một vị chúa tể của Thiên Thần và thế nhân, Đức Phật ấy sẽ vạch rõ
cho người một chân lý bất diệt như Ta đã dạy ngươi, Ngài sẽ giảng đạo vinh
quang tuyệt đỉnh, vinh quang về mục đích chân thật và hình thức như Ta đã dạy
ngươi. Ngài sẽ giảng đạo cho người một đạo vinh quang trong bản nguyên, vinh
quang ở tuyệt đỉnh, vinh quang ở mục đích, về tinh thần và hình thức. Ngài sẽ
chủ trương một cuộc sống đạo lý hoàn toàn và tinh khiết, như Ta đang chủ
trương; Tông đồ của Ngài hằng vạn, còn tông đồ của Ta có mấy ngàn.
Đúng lời Phật Thích Ca nói: suốt 45 năm thuyết đạo tại miền Đông Bắc Ấn Độ tông đồ chỉ có mấy ngàn, vì đạo Ba La Môn cứ mãi kình chống với đạo Phật Thích Ca, đến 400 năm sau Đức Phật nhập diệt tịch, Đạo Phật Thích Ca mới lan rộng ra khắp nước Ấn Độ nơi phát tích Đạo Phật Thích Ca. ( căn cứ tác giả Trịnh Văn Thanh )
Đúng lời Phật Thích Ca nói: suốt 45 năm thuyết đạo tại miền Đông Bắc Ấn Độ tông đồ chỉ có mấy ngàn, vì đạo Ba La Môn cứ mãi kình chống với đạo Phật Thích Ca, đến 400 năm sau Đức Phật nhập diệt tịch, Đạo Phật Thích Ca mới lan rộng ra khắp nước Ấn Độ nơi phát tích Đạo Phật Thích Ca. ( căn cứ tác giả Trịnh Văn Thanh )
Đúng như Đức Phật Thích
Ca công nhận với Ngài Ananda, sau 45 năm chu du thuyết đạo tại miền Đông Bắc Ấn
Độ, dạy đời mà số tín đồ của Phật Thích Ca chỉ có mây ngan,
Nhìn lại Đức Huỳnh Giáo
Chủ Phật Giáo Hòa Hảo chỉ một năm đầu khai sáng lại " Đạo Phật " tại
làng Hòa Hảo, mà số tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tăng vọt gần hai triệu người.( căn
cứ sổ phát thẻ tín đồ của Ban Trị Sự Phật Giáo Hòa Hảo Liên Tỉnh ). Từ khi
Đức Phật Thích Ca nhập diệt tịch đến năm 2018, chưa có vị nào xuất hiện trên
thế giới mở đạo dạy đời, có số tín đồ một năm đầu gần hai triệu người, so với
tỷ lệ, dân số Lục Châu Nam Kỳ chỉ có 4 triệu sáu trăm, 16 ngàn dân ( 4.616.000
ngàn ), như Đức HUỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo ?
Từ khi Đức Phật Thích Ca
nhập diệt tịch đến thế kỷ thứ bảy, Đạo Phật Thích Ca đã suy đồi, do đạo sĩ Bà
La Môn độn nhập trong hàng tăng đồ đem nhiều thuyết Ấn Độ giáo pha trộn giáo
pháp của Đạo Phật Thích Ca, làm cho giáo pháp của hai tôn giáo không gì khác
nhau, , nên có hằng ngàn người bỏ đạo Phật lũ lượt kéo nhau trở về Ấn Độ Giáo
!..
Do đó, một số vị nhìn xa thấy rộng đề xướng một môn phái Phật Giáo mới là " Tín Đồ Phật A Di Đà ". họ tin tưởng Đức Phật A Di Đà cũng đem lại sự giải thoát.
Kể từ thế kỷ thứ bảy và thế kỷ thứ tám, Đạo Phật Thích Ca suy đồi xuống tột cùng ở Ấn Độ.
Đến thế kỷ thứ mười, mới được truyền sang khắp Châu Á như thũy triều, nhưng không biết do các sách nói về Đạo Phật Thích Ca hay vì môn phái riêng của dịch giả mà các bản dịch sang các thứ tiếng bản xứ đã bị nhiều sai trật lời Phật đang thuyết không còn nguyên gốc.
Bởi đó, mỗi quốc gia nền đạo của Đức Phật Thích Ca đã bị chia ra nhiều phái, pha trộn nhiều mê tín dị đoan nghi thức rườm rà, Nam Thần, Nữ Thần và ma quỉ của mỗi địa phương.
Đến đầu thế kỷ 20, Đạo Nho, Đạo Lão coi như bị bế tắc, Đạo Phật Thích Ca bị bóp nghẹt, vì tà đạo chen vào lấn áp, làm cho triết lý Đạo Phật Thích Ca mất cả sự hùng tráng, chùa chiền đáng lẽ là nơi phổ biến kiến thức tu hành giác ngộ, lại có những chùa dùng nơi làm nghề bói toán, xin xâm, bói quẻ, xem tướng số, chủ trương dị đoan mê tín, cúng kiếng tinh tà, đốt giấy tiền vàng bạc, lầu kho, xá phướng, bán bùa chú,dân làng thôn thì lập không biết bao nhiêu miếu thờ tà thần khắp nơi như: ở ranh đất này có miểu thờ ông thổ thần bằng cụt đất, ở đầu cầu kia có miếu thờ ông hổ bằng hình vẻ con cọp, ở gốc cây to có miếu thờ ông tà bằn cụt đá, ỏ mé sông trước cửa nhà có thẻ tre sơn vôi trắng yếm bà thủy cho nhà có con gái không mất nàng dưới,... Những điều ấy hoàn toàn vi phạm giáo truyền của Đức Phật Thích Ca khi đang thuyết. Đức Phật Thích Ca nói: Hởi tỳ kheo, Ta cấm ngươi dùng bùa ngải, phù chú, đó là những việc vô ích, vì luật nhân quả chi phối muôn vật, kẻ làm phép lạ không hiểu giáo lý toàn thiện.
Từ thế kỷ thứ bảy đến thế kỷ 20, trong Đạo Phật Thích Ca có những vị tu hành tinh tấn cũng muốn chấn chỉnh lại Đạo Phật Thích Ca, nhưng không một ai có đủ khả năng cải hóa được. Vì Đức Phật Thích Ca không có tự tay chép lại giáo pháp, nên thiếu địểm cứ, phái nào nói theo phái nấy, ai cũng cho phái ta là đúng.
Cụ thể:
Do đó, một số vị nhìn xa thấy rộng đề xướng một môn phái Phật Giáo mới là " Tín Đồ Phật A Di Đà ". họ tin tưởng Đức Phật A Di Đà cũng đem lại sự giải thoát.
Kể từ thế kỷ thứ bảy và thế kỷ thứ tám, Đạo Phật Thích Ca suy đồi xuống tột cùng ở Ấn Độ.
Đến thế kỷ thứ mười, mới được truyền sang khắp Châu Á như thũy triều, nhưng không biết do các sách nói về Đạo Phật Thích Ca hay vì môn phái riêng của dịch giả mà các bản dịch sang các thứ tiếng bản xứ đã bị nhiều sai trật lời Phật đang thuyết không còn nguyên gốc.
Bởi đó, mỗi quốc gia nền đạo của Đức Phật Thích Ca đã bị chia ra nhiều phái, pha trộn nhiều mê tín dị đoan nghi thức rườm rà, Nam Thần, Nữ Thần và ma quỉ của mỗi địa phương.
Đến đầu thế kỷ 20, Đạo Nho, Đạo Lão coi như bị bế tắc, Đạo Phật Thích Ca bị bóp nghẹt, vì tà đạo chen vào lấn áp, làm cho triết lý Đạo Phật Thích Ca mất cả sự hùng tráng, chùa chiền đáng lẽ là nơi phổ biến kiến thức tu hành giác ngộ, lại có những chùa dùng nơi làm nghề bói toán, xin xâm, bói quẻ, xem tướng số, chủ trương dị đoan mê tín, cúng kiếng tinh tà, đốt giấy tiền vàng bạc, lầu kho, xá phướng, bán bùa chú,dân làng thôn thì lập không biết bao nhiêu miếu thờ tà thần khắp nơi như: ở ranh đất này có miểu thờ ông thổ thần bằng cụt đất, ở đầu cầu kia có miếu thờ ông hổ bằng hình vẻ con cọp, ở gốc cây to có miếu thờ ông tà bằn cụt đá, ỏ mé sông trước cửa nhà có thẻ tre sơn vôi trắng yếm bà thủy cho nhà có con gái không mất nàng dưới,... Những điều ấy hoàn toàn vi phạm giáo truyền của Đức Phật Thích Ca khi đang thuyết. Đức Phật Thích Ca nói: Hởi tỳ kheo, Ta cấm ngươi dùng bùa ngải, phù chú, đó là những việc vô ích, vì luật nhân quả chi phối muôn vật, kẻ làm phép lạ không hiểu giáo lý toàn thiện.
Từ thế kỷ thứ bảy đến thế kỷ 20, trong Đạo Phật Thích Ca có những vị tu hành tinh tấn cũng muốn chấn chỉnh lại Đạo Phật Thích Ca, nhưng không một ai có đủ khả năng cải hóa được. Vì Đức Phật Thích Ca không có tự tay chép lại giáo pháp, nên thiếu địểm cứ, phái nào nói theo phái nấy, ai cũng cho phái ta là đúng.
Cụ thể:
1/- Theo sách " Chúng thánh điểm ký " thì nói năm sanh Đức
Phật Thíc Ca là năm 565 trước Công Nguyên.
2/- Còn các nhà khảo cổ thì nói năm sanh Đức Phật Thích Ca là
năm 563 trước Công Nguyên.
3/-Theo Phật Giáo Tích Lan thì nói sanh Đức Phật Thích Ca vào
năm 624 trước Công Nguyên.
4/- Phật Giáo Tây Tạng thì nói sanh Đức Phật là năm 620 trước
Công Nguyên.
5/-Phật Giáo ở phía Bắc Ấn Độ thì nói sanh Đức Phật Thích Ca là
năm 1028 trước kỷ nguyên vào đời vua Chiêu vương nhà Chu.
6/-Còn bia ký ở Buddha Gaya Ấn Độ có ghi sanh Đức Phật Thích Ca
là năm 623 trước Công nguyên.
7/- Những nhà bác học thời bấy giờ nói sanh Đức Phật Thích Ca
vào năm 558 hay là 520 trước Công Nguyên.
Đức Huỳnh Giáo
Chủ cho biết Đản sanh Đức Phật Thích Ca hồi thế kỷ thứ sáu như sau:
..." Có một điều già trẻ ân cần,
Là phải biết nguyên nhân Phật Giáo.
Hồi thế kỷ khoảng trong thứ sáu,
Trước kỷ nguyên tây lịch thời xưa.
Pháp giáo chưa biệt lập tam thừa,
Thuở Trung Quốc nhà Châu Chiêu Đế. "...
Và Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng cho biết Bà Hoàng Hậu khi có mang như
sau :
..." Đêm trăng thanh gió mát thảnh thơi,
Tiết hòa thuận khắp nơi hoa nở.
Đức Hoàng hậu trong lòng hớn hở,
Giấc chiêm bao bà thấy lạ lùng.
Bạch tượng từ ở chốn không trung,
Bổng sa xuống mình Bà hối hả.
Vừa tỉnh giấc mơ tiên mới lạ,
Khắp phòng huê thơm nức mùi hương. "...
-Đức Huỳnh Giáo Chủ Đạo Phật Giáo Hòa Hảo lại cho biết khi sanh
Đức Phật Thích Ca với thời tiết như sau:
..." Ngày thắm thoát đông qua hạ chí,
Bà trổ sanh thái tử đẹp tươi.
Mặt trang nghiêm khí phách hơn người.
Vua cùng khắp thần dân mừng rỡ,
Họ Thích Ca từ đây cũng ngỡ.
Sẽ có người nối nghiệp hoàng gia,
Liền đặt tên là Sĩ Đạt Ta. "...
-Đức Huỳnh Giáo Chủ Đạo Phật Giáo Hòa Hảo dùng siêu hình thực
nghiệm chẳng những chỉ biết khi sanh Đức Phật Thích Ca, Ngài còn biết khi Bà
Hoàng Hậu khi có mang và khi sanh Thái Tử Sĩ Đạt Ta ( Đức Phật Thích Ca ) như
thế nào, mà trong loài người kể cả các nhà khoa học chưa bao giờ biết, đến cuối
năm 2015 Khoa Học UNESCO mới khám phá ra một ngôi đền cổ nằm dưới ngôi đền hiện
tại ở Ấn Độ, xác nhận Đản Sanh Đức Phật Thích Ca hồi thế kỷ thứ sáu, trước Công
Nguyên 600 năm, đúng y như Đức Huỳnh Giáo Chủ Đạo Phật Giáo Hòa Hảo đã biết như
đã dẫn chứng trên.
Đó mới dám nói Đức Huỳnh Giáo Chủ Đạo Phật Giáo Hòa Hảo tiên tri
đi trước và đi xa hơn khoa học hiện tại và loài người.
ĐẠO PHẬT GIÁO
HÒA HẢO
CỦA ĐỨC HUỲNH PHÚ SỔ
Nói
đến Tôn Giáo là ai cũng biết đó là " Đạo " , Đạo là con đường, từ bi
bác ái, con đường dẫn dắt chúng sanh tu học, con đường tu tâm dưỡng tánh, con
đường chỉ dẫn kẻ lầm lỗi, tàn ác biết ăn năn sấm hối cho tội căn được tiêu mòn
và mong được giải thoát khỏi cảnh luân hồi trong bể khổ trần thế
Lão Tử nói: Trước khi có trời đất thì chỉ có " Đạo ",
vạn vật đều do Đạo mà sinh ra, Đạo là cái gốc nguyên thủy
các sự tạo hóa, Đạo là bản thể của vũ trụ.
-Đức Phật Thích Ca, những lời cuối cùng, Ngài nhắc đi, nhắc lại,
khuyến cáo các tông đồ rằng: " Bản tính của mọi vật đều suy tàn, chân lý
thì tồn tại mãi mãi. " Có nghĩa là danh Đạo vẫn tồn tại, nhưng cái đạo
không bất diệt "; có thể hiểu theo thực tế là: " Danh Đạo vẫn còn lưu
truyền, chánh pháp không còn nguyên thủy. " Vì Giáo Chủ nào khi
đã hoàn tất sứ mạng phải trở về thiên cung, sau đó, người phàm tục kế thừa, sửa
đổi hay thêm bớt và tà đạo xen vào đem nhiều thuyết dị đoan mê tín, cúng kiến
tinh tà, pha trộn chân lý của Giáo Chủ, làm cho chân lý nguyên thủy của Giáo
Chủ không còn nguyên gốc, nên người đời sau tu hành hằng ngàn năm không thấy ai
thành, bởi đó Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết:
... " Cả ngàn năm lương tâm xao xuyến,
Sao tu hoài chẳng thấy ai thành.
Bởi chữ tu liền với hữ nhành,
Hành bât chánh người đời mới nói.
Bị tăng chúng quá ham chùa ngói,
Nên tảo khuyên khắp chốn cùng làng.
Phật nào ham tượng cốt phết vàng,
Mà tăng tạo hao tiền bá
tánh "... ( tăng đây là thêm )
Đến đầu thế kỷ 20, Đạo Nho, Đạo Lão coi như bị bế tắc, Đạo Phật
Thích Ca coi như bị bóp nghẹt, vì tà đạo chen vào lấn áp, làm cho triết lý Đạo
Phật Thích Ca mất cả sự hùng tráng, chùa chiền đáng lẽ là nơi phổ biến kiến
thức tu hành giác ngộ, lại có những chùa dùng nơi làm nghề bói toán, xin xâm,
bói quẻ, xem tướng số, chủ trương dị đoan mê tín, cúng kiếng tinh tà, đốt giấy
tiền vàng bạc, lầu kho, xá phướng, bán bùa chú, mượn kinh luân tụng mướn lấy
tiền...Dân chúng thì thành
lập nhiêu miếu thờ tà thần khắp nơi như: ở ranh đất này có miểu thờ ông "
Thổ Thần " bằng cụt đất, ở đầu cầu kia có miếu thờ " ông hổ " bằng hình vẻ con cọp, ở gốc cây to có
miếu thờ " ông Tà " bằng cụt đá, ỏ mé sông trước cửa nhà có thẻ
tre sơn vôi trắng yếm " bà thủy " cho nhà có con gái không mất bịnh
nàng dưới,... Những điều ấy hoàn toàn vi phạm giáo truyền vô vi của Đức Phật
Thích Ca khi đang thuyết.
Đức Phật Thich Ca nói: Hởi tỳ kheo, Ta cấm ngươi dùng bùa
ngải, phù chú, đó là những việc vô ích, vì luật nhân quả chi phối muôn vật, kẻ
làm phép lạ không hiểu giáo lý toàn thiện.,
Đứng trước hoàn cảnh chúng dân mê tín thờ cúng tà thần hồ
lốn, hổn độn như thế, làm cho Đạo Phật Thích Ca suy đồi, tuột dốc tận cùng, Đức Huỳnh Phú Sổ mới 19 tuổi, xuất hiện, dùng siêu hình thực nghiệm, tự biết
những quy điều vô vi của Đúc Phật Thích Ca đang thuyết, Ngài khai sáng
lại " Đạo Phật " tại làng Hòa Hảo mới có đạo hiệu là
" Phật Giáo Hòa Hảo " đúng như lời của Đức Phật Thích Ca
đã nói với Ngài Ananda mấy ngàn năm trước.
Đức Huỳnh Phú Sổ từ 15
tuổi vừa thi đậu bằng cấp Sơ Đẳng Tiểu học, tức là bằng cấp lớp Ba trường Công
lập Phổ Thông quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, thì đau ốm liên miên, nên phải nghỉ
học về nhà để tìm thầy trị bịnh, nhưng không một thầy thuốc Đông Y hay bác
sĩ Tây y nào trị được căn bịnh của Ngài. Khi bịnh dịch chết người lan tràn khắp
Lục Châu Nam Kỳ, nhà cầm quyền Pháp không có thuốc trị; đầu trên mất vợ, xóm
dưới chồng hay mất con, cháu... họ khóc kể, rên la thảm thiết, Đức Huỳnh
Phú Sổ tự nhiên hết bịnh đi ra đường kêu đầu trên, xóm dưới, ai mắc bịnh chi
đem đến trị cho ?
Những
gia đình ở gần có người bịnh, thầy thuốc Đông Y và bác sĩ Tây Y đều bó tay bỏ
chạy, thân nhân chở về nhà nằm chờ chết, họ nghe vậy đánh liều chở đến cho Ngài
trị, may ra hết bịnh thì tốt, còn không hết cũng giống như nằm nhà chờ chết
vậy. Khi đem đến Ngài chỉ cho uống nước lạnh hay bông thọ, bông trang vậy mà
bịnh nào cũng hết, tiếng đồn lan rộng ra xa, người ta chở bịnh nhân đến tấp
nập. Ngài vừa trị bịnh cứu đời, vừa thuyết giảng tiên tri thời cuộc Việt Nam và
thời sự thế giới, dạy đạo tu hành; Khai Sáng lại " Đạo
Phật " tại làng Hòa Hảo,từ d9o` người ta kêu Cậu Tư Hòa Hảo
hay ông Tư Hòa Hảo, đến khi tín đồ tăng vọt quá sự tưởng tượng của mọi người,
thì các nhà trí thức tự tôn vinh Ngài là " Đức
Huỳnh Giáo Chủ " Đạo Phật Giáo Hòa Hảo, không còn ai dám
kêu tên Ngài nữa.
Bởi
đó, phải nói là " Phật Giáo Hòa Hảo " chứ không nói Hoa
Hảo. Vì nói " Hòa Hảo " tức là có
người mà không có họ, còn nói " Phật Giáo " mà không nói
Hòa Hảo, cũng giống như có họ mà không có người ! Đó là Đạo Phật Thích
Ca là căn nguyên của Đạo Phật Giáo Hòa Hảo, chứ không phải Đạo Phật Giáo Hòa
Hảo là một môn phái như các môn của người phàm tục xuất gia tu hành khi thông
suốt kinh điển rồi bất đồng nhau mà tách ra cất chùa và lập một môn phái khác,
đã có trong Đạo Phật Thích Ca từ xưa nay.
Cũng
như Đức Phật Thích Ca nói với Ngài Ananda: " Vị Phật ấy chí
tôn, chí tuệ, hành vi đạo đức vô song ". Có nghĩa là Đức Huỳnh Giáo CHủ
không học với bất cứ ai về một môn phái nào, mà tự thông suốt tất cả mọi việc,
kể cả thời cuộc bản xứ và thời sự thế giời rất nhiều các tôn giáo khác.
Nhìn
lại hành vi đạo đức của Đức Huỳnh Giáo Chủ rất là trong sáng, không có một điểm
nào vướng vào bụi đời như người phàm tục.
II/- Đức
Phật nói: “ Vị Phật ấy tức là Đức Huỳnh Giáo Chủ, biết rõ càn khôn vũ trụ “. để
chứng minh lời Đức Phật Thích Ca nói: Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết càn khôn vũ
trụ như sau:
..." Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật,
Dầu Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, súc sanh.
Cứ nhứt tâm, tín, nguyện, phụng hành,
Được cứu cánh về nơi an dưỡng."...
Dầu Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, súc sanh.
Cứ nhứt tâm, tín, nguyện, phụng hành,
Được cứu cánh về nơi an dưỡng."...
-Đó là Đức Huỳnh Giáo Chủ đã biết rõ càn khôn vũ trụ, như Đức Phật Thích Ca đã nói với Ngài Ananda mấy ngàn năm xưa. "
Nhìn lại lịch sử Tôn Giáo toàn cầu kể cả Đức
Phật Thích Ca cũng chưa cho biết rõ về " Ma, Quỉ, súc sanh " tu được
đắc quả vị thiêng liêng như Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo đã cho biết
như trên.
Ngược lại, có một số Tôn Giáo đã quan niệm rằng, người ngoài tôn giáo họ, toàn là Ma, Quỉ, Súc Sanh... không phải người ta như họ, nên không thể tu hành đắc đạo được về cõi Tiên, Phật...như họ được !!!
Ngược lại, có một số Tôn Giáo đã quan niệm rằng, người ngoài tôn giáo họ, toàn là Ma, Quỉ, Súc Sanh... không phải người ta như họ, nên không thể tu hành đắc đạo được về cõi Tiên, Phật...như họ được !!!
III/- Đức Phật Thích Ca nói: " Vị Phật ấy chủ
trương cho loài người một cuộc sống bất diệt như Đức Phật Thích Ca chủ trương
cho người:
-Đức
Huỳnh Giáo Chủ, chủ trương tu hành tại gia, không mắc nợ đàn na
thí chủ, không cần ai dâng cơm, chào nước, tự làm, tự sống, tự tu tại gia với
giáo lý Tứ Ân là những ân bất diệt, nếu là loài người, đời nầy đến muôn đời
khác, đều phải biêt Tứ Đại Trọng Ân, dân tộc của quốc gia nào, không một chế độ
nào dám chối bỏ Tứ Đại Trọng Ân, mà bốn cái Ân bất diệt như sau:
1/-Ân
Tổ Tiên cha mẹ : Ta sanh ra cõi đời được hình hài để hoạt động từ thuở
bé nhỏ đến lúc trưởng thành, đủ trí khôn ngoan, trong khoảng bao nhiêu năm
trường ấy, cha mẹ ta chịu biết bao nhiêu khổ nhọc nhưng sanh ra cha mẹ là nhờ
có tổ tiên, nên khi biết ơn cha mẹ cũng phải có bổn phận biết ơn tổ tiên nữa.
Đó là cái ân bất diệt thứ nhứt.
2/-Ân
Đất Nước: Sanh ra, ta phải nhờ Tổ Tiên, cha mẹ, sống ta phải nhờ đất nước,
quê hương. Hưởng những tấc đất, ăn những ngọn rau, muốn cho sự sống được
dễ dàng, giống nòi được truyền thụ , ta cảm thấy bổn phận phải bảo vệ đât nước,
Bờ cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc gia mạnh giàu mình ta mới ấm. Hảy tùy
tài, tùy sức nổ lực hy sinh cho xứ sở... Đó là cái Ân bất diệt thứ hai.
3/-
Ân Tam Bảo: Tam Bảo là gì ?...Tức là Phật, Pháp, Tăng. Con người nhờ
Tổ Tiê cha mẹ sanh ra nuôi dưỡng, nhờ đất nước tạo kiếp sống cho mình. Ấy về
phương diện vật chất.
Về
phương diện tinh thần , con người cần nhờ đến sự giúp đỡ của Phật, Pháp, Tăng,
khai mở trí óc cho sáng suốt nên ta hãy kính trọng Phật hãy tin tưởng và tín
nhiệm vào sự nghiệp cứu đời của Ngài...Đó là cái  bất diệt thứ ba.
4/-Ân
Đồng bào và nhân loại: Con người vừa mở mắt chào đời đã thấy mình phải nhờ
đến sự giúp đỡ của những kẻ xung quanh, và cái niên kỷ càng lớn thêm bao nhiêu,
sự nhờ nhõi càng tuần tự thêm bấy nhiêu.
Ta
nhờ hột cơm của họ ta mới sống, nhờ miếng vải của họ ta mới ấm thân, nhờ cửa
nhà của họ ta tránh được cơn phong vũ. Vui sướng ; ta đồng hưởng với họ. Hoạn
nạn; họ cùng chịu với ta... Đó là cái Ân bất diệt thứ tư.
Đúng
là 4 cái ân bất diệt như Đức Phật Thích Ca đã nói.
-Để chứng minh Đức Phật Thích Ca nói vị Phật ấy là Đức Huỳnh Giáo
Chủ, xin tuần tự lý giải theo khoa học biện chứng như sau:
IV/-Đức Phật Thích Ca nói với Ngài Ananda:
" Tông đồ của Đức Huỳnh Giáo Chủ hằng vạn, còn tông đồ của Đức Phật Thích
Ca suốt 45 năm truyền đạo mà chỉ có mấy ngàn.
Như
lời của Đức Phật Thích Ca nói với Ngài Ananda, Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ 19
tuổi, cái tuổi mà Phật Thích Ca còn là tư cách người phàm, Ngài không hề học
với bất cứ ai về một môn phái nào, thế mà Ngài tự đứng ra Khai Sáng lại "
Đạo Phật Thích Ca " đã và đang bị suy đồi, chỉ một năm đầu mà số tín đồ
tăng vọt gần hai triêu người, so với dân số Lục Châu Nam kỳ chỉ cò 4 triệu 6
trăm, 16 ngàn dân, trong lịch sử Tôn Giáo toàn cầu từ khi Đức Phật Thích Ca
nhập diệt tịch đến năm 2018, không có một ai ngoài Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo
Hòa Hảo, có số tín đồ một năm đầu quá kỷ lục và quá sự tưởng tượng của mọi
người như thế ?
TIÊN TRI DẢN SANH ĐỨC PHẬT THÍCH CA
Đức
Huỳnh Giáo Chủ dùng siêu hình thực nghiệm, chẳng những biết quy điều
vô vi của Phật Thích Ca đang thuyết và tiên tri Đản Sanh Đức Phật Thích Ca, đi
trước và đi xa hơn khoa học hiện tại, Ngài nói:
..." Có một điều già trẻ ân cần,
Là phải biết nguyên nhân Phật Giáo.
Hồi thế kỷ khoảng trong thứ sáu,
Trước kỷ nguyên tây lịch thời xưa.
Pháp giáo chưa biệt lập tam thừa,
Thuở Trung Quốc nhà Châu Chiêu Đế.
"...
Đên cuối năm 2015, khoa học
UNESCO mới khám phá ra một ngôi đền cổ nằm dưới ngôi đền hiện tại ổ Ấn Đô, khoa
học UNESCO mới xác nhận Đản Sanh Đức Phật Thích Ca hồi thế kỷ thứ 6, y như Đức
Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hp2a Hảo đã biết vế trước 2559 năm.
Đó mới dám nói Đức Huỳnh
Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo tiên tri đi trước và đi xa hơn khoa học hiện tại.
trong lúc, từ xưa nay, trong Đạo Phật Thích Ca phe nầy nói vầy, phe kia nói
khác, vì không có điểm cứ nên phe nào cũng nói phe ta nói đúng, còn phe kia nói
sai. Cụ Thể:
1/- Theo sách " Chúng thánh
điểm ký " thì nói năm sanh Đức Phật Thích Ca là năm 565 trước Công Nguyên.
2/- Còn các nhà khoa học
khảo cổ thì nói năm sanh Đức Phật Thích Ca là năm 563 trước Công Nguyên.
3/-Theo Phật Giáo Tích Lan
thì nói sanh Đức Phật Thích Ca vào năm 624 trước Công Nguyên.
4/- Phật Giáo Tây Tạng thì
nói sanh Đức Phật là năm 620 trước Công Nguyên.
5/-Phật Giáo ở phía Bắc Ấn
Độ thì nói sanh Đức Phật Thích Ca là năm 1028 trước kỷ nguyên vào đời vua Chiêu
vương nhà Chu.
6/-Còn bia ký ở Buddha Gaya
Ấn Độ có ghi sanh Đức Phật Thích Ca là năm 623 trước Công nguyên.
7/- Những nhà bác học thời
bấy giờ nói sanh Đức Phật Thích Ca vào năm 558 hay là 520 trước Công Nguyên.
Đức Huỳnh Giáo Chủ còn cho
biết khi Bà Hoàng Hậu bắt đầu có mang Thái Tử như sau:
..." Đêm trăng thanh gió mát
thảnh thơi,
Tiết hòa thuận khắp nơi hoa
nở.
Đức Hoàng hậu trong lòng hớn
hở,
Giấc chiêm bao bà thấy lạ
lùng.
Bạch tượng từ ở chốn không
trung,
Bổng sa xuống mình Bà hối
hả.
Vừa tỉnh giấc mơ tiên mới
lạ,
Khắp phòng huê thơm nức mùi
hương. "...
-Đức Huỳnh Giáo Chủ Đạo Phật Giáo
Hòa Hảo lại cho biết khi sanh Đức Phật Thích Ca với thời tiết như sau:
..." Ngày thắm thoát
đông qua hạ chí,
Bà trổ sanh thái tử đẹp tươi.
Mặt trang nghiêm khí phách hơn
người.
Vua cùng khắp thần dân mừng rỡ,
Họ Thích Ca từ đây cũng ngỡ.
Sẽ có người nối nghiệp hoàng
gia,
Liền đặt tên là Sĩ Đạt Ta.
"...
Đức Huỳnh Giáo Chủ Đạo Phật Giáo Hòa Hảo
dùng siêu hình thực nghiệm chẳng những đã biết khi sanh Đức Phật Thích Ca, Ngài
còn biết khi Bà Hoàng Hậu khi có mang và khi sanh Đức Phật Thích Ca như trên,
mà trong loài người kể cả các nhà khoa học chưa bao giờ biết, khi Bà Hoàng Hậu
đang có mang và khi sanh Thái Tử thời tiết ra sao ?
Đức Huỳnh Giáo Chủ xuất hiện trong thời kỳ khoa học phát triển
vượt bực, thuyết Cộng sản vô thần, chủ trương tiêu diệt các Tôn Giáo. Nên phải
lý giải theo khoa học biện chứng, chứ không phải như thời xa xưa loài người
khoa học chưa phát triển và chưa có thông tin Enternet toàn cầu, chỉ có một
nhóm người thành thế lực nói sao cũng được.
Ngày
nay khoa học đã phát triển vượt bực, nên nói về Tôn Giáo cũng phải lý giải theo
khoa học biện chứng mới bắt kịp với đà khoa học hiện đại và đối đầu được với
chủ thuyết Cộng sản vô thần. Bằng không thì phải bị khoa học thực tế đầy lùi
trong bóng đêm và chủ trương của Cộng sản tiêu diệt ngay một vài tháng của một
năm đầu, chứ đừng nói tồn tại mãi như Phật Giáo Hòa Hảo
BIẾT TRƯỚC 8 NĂM BIẾN CỐ ĐỐC VÀNG HẠ
---oOo---
Năm
1939, khi Đức Huỳnh Giáo Chủ mới xuất hiện Khai Sáng lại " Đạo
Phật Thích Ca " đã bị suy đồi, trong những lần thuyết giảng Ngài
đã nhiều lần nhắc đi, nhắc lại cho tín đồ biết trước khi biến cố Đốc Vàng Hạ
xảy ra, từ đó đến 8 năm sau ( 1939-1947= 8 năm ) biến cố Đốc Vàng Hạ thực
sự xảy ra. Nhưng tại sao Ngài phải chấp nhận sự biến cố đó để Ngài phải vắng
mặt, mà Việt Minh Cộng sản cũng như dư luận không tin Ngài còn sống, nhưng toàn
thể tín đồ vẫn tin Đức Huỳnh Giáo Chủ vẫn còn sống , xin chứng minh như Ngài
nói nhiều lần trong năm 1939 lại còn tự tay viết lại những lời Ngài báo trước
như sau:
…”
Trời thanh lặng gió đưa hiu hắt,
Ngồi
thơ phòng thân bắt lạnh lùng.
Gẩm
xác trần còn cách cội thung,
Đâu
có được giũ mùng quạt gió.
Cơn
mừng vui nào ngờ lũ ó,
Vội
bay ngang rồi sớt đi luôn.
Nào
phải giống chim muôn điểu thú. “…
Có
nghĩa là, khi biến cố Đốc Vàng Hạ ngày 25 tháng 2 năm Đinh Hợi, nhằm ngày 16
tháng 4 năm 1947, với những nhà chánh trị cách mạng yêu nước rất ngạc nhiên,
cho là bất ngờ. Vì khi Đức Huỳnh Giáo Chủ đang truyền đạo, Ngài từng hóa thân
từ trẻ thành già cho ông Quản Sáu xã Xua Đủa lớn Cần Thơ thấy, là một tên
Việt gian của Pháp lâu năm trong Ban Hội Tề, được Pháp đặt cử Ban Hội Tề theo
dõi quản thúc Ngài tại xã Xua Đủa Lớn Cần Thơ thấy, và cũng có lần Ngài hóa
thân một cô gái Tàu đứng trên lầu văn Phòng tại đường Miche Sai Gòn, khi Trần
Thanh Giàu thấy Ngài đang đứng chỗ lan can lầu, Trần Văn Giàu ra linh cho toán
Công an và y chạy lên bắt Ngài, nhưng khi lên lầu không thấy Ngài mà thấy một
cô gái Tàu không biết tiếng Việt, bọn chúng thất vọng ( thuật theo lời của nhà
văn lớn Hứa Hoành ) và nhiều lúc hóa thân khác nữa, mà tại sao Ngài lại bị
Bửu Vinh và Trần Văn Nguyên hại được Ngài ?.. Đó nên mọi người mới cho là sự
bất ngờ như trong lời tiên tri của Ngài vừa nêu trên.
“ Lũ Ó “ ở đây Đức Huỳnh Giáo Chủ muốn chỉ cho chúng sanh biết bọn
Việt Minh Cộng sản Hồ Chí Minh là loài cầm thú, hung ác, bạo tàn, nó không có
nhân nghĩa đạo đức con người.
”
Vội bay ngang rồi sớt đi luôn “, có nghĩa là khi biến cố Đốc Vàng Hạ Ngài vắng
mặt một cách nhanh chống, bất ngờ .
Đức
Huỳnh Giáo Chủ cho biết biến cố Đốc Vàng Hạ, Đồng Tháp Mười là lý do để Ngài
vâng lịnh trên trước sau khi Ngài phổ truyền xong giáo lý vô vi của lời Đức
Phật Thích Ca đang thuyết, cho bá tánh biết lo tu hành xong, thì Ngài phải trở
về thiên cung là cõi Phật, nhưng Ngài cũng buồn, vì loài người tàn bạo gây ra
chiến tranh cho bá tánh phải thảm khổ Ngài cho biết như sau:
…”
Rưng rưng nước mắt hai hàng,
Lánh
nơi cõi tục Phật đàng lui chơn “…
-Khi biến cố Đốc Vàng
Hạ Đức Huỳnh Giáo Chủ phải vắng mặt xa lánh trần thế , nhưng Ngài cũng không
quên khuyên bổn đạo của Ngài đừng vì sự tuyên truyền của Việt minh Cộng sản ám
hại được Ngài trong biến cố đó, mà không còn trì tâm tu hành, coi như bỏ đạo,
Ngài nói:
…”
Từ nay cách biệt xa ngàn,
Ai
người tâm đạo đừng toan phụ Thầy.
Giữa
chừng đờn nở đứt dây,
Chưa
vui buổi hiệp bổng Thầy lại xa.
Chứng tỏ Đức Huỳnh
Giáo Chủ đã biết trước khi biến cố Đốc Vàng Hạ xảy ra giữa chừng với bổn đạo của
Ngài, là sự bất ngờ của mọi người, nhưng Ngài phải chấp nhận để có lý do
vắng mặt trở về cõi Tây Phương Phật, rồi Ngài cũng trở lại như Ngài nói:
…”
Nay Thầy chịu lịnh về Tây,
Tạm
ngưng đạo đức ít ngày Thầy qua.
Thầy
về Tây, có nghĩa là Đức Huỳnh Giáo Chủ phải chấp nhận biến cố Đốc Vàng Hạ, để
có lý do vắng mặt trở về" Tây " là Tây Phương Phật, và có biến
cố Đốc Vàng Hạ để có bằng chứng với lịch sử, là Việt Minh Cộng sản giết
Phật Giáo Hòa Hảo chứ không phải Phật Giáo Hòa Hảo giết Việt Minh Cộng sản, như
Việt Minh Cộng sản tuyên truyền đổ tội cho Phật Giáo Hòa Hảo, mà Ngài đã chứng
minh nhiều lần, bọn chúng làm bộ không tin, nên Đức Huỳnh Giáo Chủ hối thúc bổn
đạo phải nghe lời dạy của Ngày, để chừng Ngài vắng mặt kiếm Thầy không ra, Đức
Huỳnh Giáo Chủ nói:
…”
Mùi đạo diệu chúng dân rán kiếm,
Trễ
thời kỳ khó gặp đặng Ta. “…
VÀ:
…”
Rán nghe lời dạy của Thầy,
Để
chừng đến việc kiếm Thầy khó ra.
Tây
Phương Thầy lại ở xa,
Nên
Ta mới nói cạn lời dân nghe.”…
Nhìn
qua mấy lời của Đức Huỳnh Giáo Chủ nói trên đây, thì phải biết hiện nay Ngài
đang ở trên cõi Phật, xa lắm, chứ không phải như người ta tuyên truyền đã hại
được Ngài.
Khi biên cố Đốc Vàng Hạ xảy ra, tuy Ngài vắng mặt, nhưng Ngài vẫn
biết bá tánh chưng hửng và ngẩn ngơ, là tại vì từ trước đến lúc đó mọi người
không chịu xem kệ giảng của Ngài, nên không biết sự báo trước là như thế, Ngài
nói:
…”
Thấy trong bá tánh ngẩn ngơ,
Nay
Thầy xa tớ bơ vơ một mình.
Gẩm
trong hai chữ nhục vinh,
Xưa
nay thiên hạ kệ kinh ít dùng. “…
Đức Huỳnh Giáo Chủ
cũng cho biết bắt đầu hội nghị với Bửu Vinh, thì súng của bọn Việt Minh Cộng sản
bên ngoài bắn xối xả vào chỗ Ngài, túc đạn văng tứ tung như xác
pháo ngày tết âm lịch, Đức Huỳnh Giáo Chủ cho biết như sau:
…”
Buổi nhập tiệc trải qua tràng pháo,
Khói
mịt mù văng xác đầy đường.
Cuộc
đời như ngựa buông cương,
Khó
dừng lại vó cu lụp cụp.”…
”
Khó dừng lại vó cu lụp cụp “. có nghĩa là Việt Minh Cộng sản nghĩ rằng ám hại
Ngài được rồi, thì Phật Giáo Hòa Hảo như rắn mất đầu, tức nhiên phải rả tan,
không còn ai dám thù oán, trả thù bọn chúng, nhưng bọn Việt Minh Cộng sản
Hồ Chí Minh đã lầm, vì từ đấy bắt đầu Phật Giáo Hòa Hảo xô xác với Việt
Minh Cộng sản càng kinh hoàng hơn, toàn thể tín đồ, hể biết ai là Việt
minh Cộng sản là báo cho nhau bắt cho mò tôm ( bỏ vào bao bố neo đá liệng
xuống sông Cửu Long ), nên từ đó đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, Cộng sản không
dám xuất hiện hoạt động ở vùng Đạo Phật Giáo Hòa Hảo như tại Thủ Đô Sài Gòn của
các vị nguyên thủ quốc gia ngự trị. Đó là chưa nói các tỉnh khác do các vị
nguyên thủ quốc gia có trách nhiêm bình định cho dân chúng còn thậm tệ hơn.
Tuy nhiên Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng xác quyết sau nầy Ngài sẽ trở
lại, lúc đó Ngài nói sơ mà chư bang hàng phục. Vì Ngài hứa Ngài sẽ trở lại với
hình dáng cũ là chuyện khó tin, nên khi Ngài xuất hiện trở lại Ngài chỉ nói
chơi thôi là cả thế giới phải ngạc nhiên,thì chư bang phải hàng phục. Thử nghĩ,
sau nầy Đức Huỳnh Gáo Chủ trở về với hình dáng cũ như Ngài về năm 1995 với lời
hứa với Bà Hương Bộ Thạnh chết thì Ngài về, đúng 50 năm, từ năm 1945 Ngài đi
khuyến nông, đến năm 1995, khi Bà Hương Bộ Thạnh chết Ngài về với hình dáng cũ
và ngồi ăn cơm chung với năm sáu người khoảng 3 giờ đồng hồ, để mọi người
nhìn cho rõ. Ngài trở lại bằng hình dáng củ , sau nầy Ngài cũng trở về như năm
1995 khi bà Hương Bộ Thạnh chết, thí loài người ai mà không thán phục, Ngài
cho biết sau đây:
…”
Ít lâu Ta cũng trở về,
Khuyên
cùng bổn đạo chớ hề lãng xao.
Trì
lòng chớ có núng nao,
Từ
đây nhơn vật mòn hao lần lần.”
*- Đức Huỳnh Giáo Chủ đã biết
trước 8 năm ( 1939-1947=8 năm ), khi biến cố Đốc Vàng Hạ xảy ra người ta loan
tin Ngài đã chết, mà chính Đức Huỳnh Giáo Chủ đã biết trước như vậy, thì
ai hại được Ngài, nhưng đó là lý do Ngài phải vắng mặt theo lịnh trên trước
trong hoàn cảnh Việt Minh Cộng sản giết Phật Giáo Hòa Hảo và Việt Nam Dân Xã Đảng
ngày càng gia tăng khủng khiếp, Việt Minh Cộng sản giết thả trôi bèo sông Cửu
Long ( Sông Tiền và Sông Hậu ), mà bọn Việt Minh Cộng sản cứ đổ tội Phật Giáo
Hòa Hảo và Việt Nam Dân Xã Đảng giết Việt Minh Cộng sản, mà Ngài chứng minh,
nhưng bọn chúng giả đò không tin, nên còn chỉ có cách hóa thân cho lịch sử kết
tội Việt Minh Cộng sản giết Phật Giáo Hòa Hảo chứ không ai nói Phật Giáo Hòa Hảo
giết Việt Minh Cộng sản bao giờ ?.. Mặc dầu sau đó Phật Giáo Hòa Hảo xô xác với
Việt Minh Cộng sản một cách khủng khiếp, Việt Minh Cộng sản Hồ Chí Minh không
ngờ tình thế xảy ra như vậy, khi đó Việt Minh Cộng sản và lịch sử không nói tại
Đức Huỳnh Giáo Chủ chủ trương được, vì Ngài đã vắng mặt rồi.
Đức Huỳnh Giáo Chủ TIÊN TRI THẾ CHIẾN THỨ
HAI
Khi bắt đầu bùng nổ và
khi kết thúc
---oOo---
---oOo---
Nhìn
lại lịch sử Đạo Phật từ khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt tịch đến đời vua Tự
Đức, trong Đạo Phật chỉ có Thiền Sư và 33 đời Tổ, mãi đến năm 2018, trong
khoảng thời gian dài đó, có Ông Đoàn Minh Huyên là Phật Thầy Tây An, danh hiệu
thì Bửu Sơn Kỳ Hương, chứ chưa phải " Đạo hiệu là Phật " như Đức Phật
Thích Ca đã nói. Mặc dù Phật Thầy Tây An là tiền thân của Đức Huỳnh Giáo Chủ,
nhưng đó là những thời kỳ chưa được chánh danh, vì nhiều người Việt Nam làm Việt gian cho Pháp
theo dõi gắt gao, do đó, là thời kỳ chỉ khai thị
Pháp môn, để đi đến Đạo Hiệu là " Phật Giáo Hòa Hảo " .
Nên
hiểu, khi có " Đạo Hiệu " thì vị Phật đó phải có giáo lý siêu mầu,
ngoài cách dạy đạo tu hành, giáo lý còn phải ẩn ý tiên tri thời cuộc bản xứ và
thời sự thế giới như của Đức Huỳnh Giáo Chủ, mà người phàm tục dù học thức khoa
bảng cỡ nào, cũng không một ai viết được giáo lý như của Đức Huỳnh Giáo Chủ
Phật Giáo Hòa Hảo ? Đó mới gọi là " Đạo Hiệu ".
Để
biết rõ Đức Huỳnh Giáo Chủ tiên tri đi trước và đi xa hơn khoa học hiện đại,
chúng ta thử nhìn lại Đức Huỳnh Giáo Chủ đã tiên tri thế chiến thứ hai, một
cuộc chiến tranh lớn nhứt toàn cầu từ xưa nay , tại 4 Châu: Châu Âu, Châu Á,
Châu Úc và Châu Phi như Ngài nói:
..." Mèo kêu bá tánh lao xao,
Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê.
Con ngựa lại đá con dê,
Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao.
Khỉ kia cũng bị xáo xào,
Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng "...
..." Mèo kêu bá tánh lao xao,
Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê.
Con ngựa lại đá con dê,
Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao.
Khỉ kia cũng bị xáo xào,
Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng "...
Xin tạm lý giải theo khoa học
biện chứng như sau:
1/- " Mèo kêu bá tánh lao xao ", Mèo là năm 1939, thế chiến thứ hai bắt đầu bùng nổ, khi Anh và Pháp tuyên chiến với Đức ngày 3 tháng 9 năm 1939.
Ngày 28 tháng 9 năm 1939, Nga và Đức xâm lăng Ba Lan, ký Hiệp Ước chia đôi nước Ba Lan !
2/- "Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê." Rồng là năm 1940, ngày 10 tháng 6 năm 1940, Ý tuyên chiến với Pháp và Anh.
Ngày 18 tháng 6 năm 1940, Trục, Đức, Ý Nhựt tham chiến
3/- " Rắn là năm 1941, ngày 7 tháng 12 năm 1941, Hoa Kỳ và Trung Hoa nhảy vào cuộc chiến, chống Trục, Đức, Ý, Nhựt. Từ đó chiến tranh nổ lớn trong 4 Châu là Châu Âu, Châu Á, Châu Úc và Châu Phi. loài người chết vô số, nên Đức Huỳnh Giáo Chủ nói " chỉn ghê " không sai.
4/-" Con ngựa lại đá con dê ", Năm ngựa là năm 1942, con dê là năm 1943, khi con ngựa nó đá là nó dùng chân sau, ám chỉ là cuối năm con ngựa ( 1942 ) đầu năm con dê ( 1943 ), là chiến tranh lan tràn, chết chốc dân chúng đồ khổ !
1/- " Mèo kêu bá tánh lao xao ", Mèo là năm 1939, thế chiến thứ hai bắt đầu bùng nổ, khi Anh và Pháp tuyên chiến với Đức ngày 3 tháng 9 năm 1939.
Ngày 28 tháng 9 năm 1939, Nga và Đức xâm lăng Ba Lan, ký Hiệp Ước chia đôi nước Ba Lan !
2/- "Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê." Rồng là năm 1940, ngày 10 tháng 6 năm 1940, Ý tuyên chiến với Pháp và Anh.
Ngày 18 tháng 6 năm 1940, Trục, Đức, Ý Nhựt tham chiến
3/- " Rắn là năm 1941, ngày 7 tháng 12 năm 1941, Hoa Kỳ và Trung Hoa nhảy vào cuộc chiến, chống Trục, Đức, Ý, Nhựt. Từ đó chiến tranh nổ lớn trong 4 Châu là Châu Âu, Châu Á, Châu Úc và Châu Phi. loài người chết vô số, nên Đức Huỳnh Giáo Chủ nói " chỉn ghê " không sai.
4/-" Con ngựa lại đá con dê ", Năm ngựa là năm 1942, con dê là năm 1943, khi con ngựa nó đá là nó dùng chân sau, ám chỉ là cuối năm con ngựa ( 1942 ) đầu năm con dê ( 1943 ), là chiến tranh lan tràn, chết chốc dân chúng đồ khổ !
5/- " Khỉ kia cũng bị
xáo xào ", Khỉ là năm 1944, xáo xào là chiến trang giết qua giết lại; ví
như người ta đang xào nồi thịt, người ta trộn lên, trộn xuống, những miếng thịt
trong nồi không yên.
6/- " Canh khuya gà gáy
máu đào mới ngưng ". Gà là năm 1945, Canh khuya là canh cuối trong một đêm
có năm canh, ám chỉ là cuối năm Dậu 1945, Nhựt bị hai quả bom nguyên tử, làm
cho Nhựt Hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, từ đó chiến tranh thứ hai mới chấm
dứt.
Từ
năm 1939 đến năm 2018, loài người trên quả địa cầu nầy, kể cả các nhà khoa học,
chưa có một ai cho biết trước một cuộc chiến nào khi xảy ra và khi kết thúc như
Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo, đã tiên tri thế chiến thứ Hai ?
TIÊN TRI KHÍ HẬU HÂM NÓNG TOÀN CẦU
Về
khí hậu hâm nóng toàn cầu cũng nằm trong lời Đức Phật Thích Ca nói , Đức Huỳnh
Giáo Chủ biết rõ càn khôn vũ trụ; nên cần phải nói thêm để thấy rõ Đức Huỳnh
Giáo Chủ biết rõ càn khôn vũ trụ như Đức Phật Thích Ca nói như sau :
..."
Trời dông gió sái mùa sái tiết,
Nắng cùng mưa cũng khác xưa rồi.
Và:
Ngọn thủy triều trái đất sụt sôi,
Và:
Ngọn thủy triều trái đất sụt sôi,
Bầu
trái đất một phen luân chuyển. "...
-Hai
câu trên đây là Đức Huỳnh Giáo Chủ chỉ rõ về khí hậu hâm nóng toàn cầu, Ngài
nói từ ngày 20 tháng 9 năm Kỷ Mão 1939, đến năm 2006, là 67 năm sau các nhà
khoa học Hoa Kỳ mới khám phá ra sự nguy hiểm khí hậu hâm nóng toàn cầu. Từ đó,
các nhà khoa học thế giới mới biết sự nguy hiểm khí hậu hâm nóng toàn cầu, là
do chất phế thải của các quốc gia kỹ nghệ, mà báo động tình trạng khí hậu hâm
nóng toàn cầu, trở thành mối lo ngại lớn trong loài người.
Ngày 21 tháng 11 năm 2011 Diễn Đàn bàn về biến đổi khí hậu tổ chức tại Dhata Thủ Đô Bangladesh có sự tham dự của 30 quốc gia.
Tổng thư ký liên hiệp quốc ông Ban Ki Moon tại diễn đàn Dhata Bangladesh, ông cho rằng, nếu con người sẵn sàng đối phó trước những hiện tượng được cảnh báo như thế có thể tránh được những nổi khốn khó, tồi tệ hơn trong tương lai, về sự nguy hiểm khí hậu hâm nóng toàn cầu.
..." Chúng ta sẽ đối phó với nguy cơ biến đổi khí hậu, vì chúng ta biết rằng nếu không làm như thế thì chúng ta sẽ phản bội con cháu chúng ta và thế hệ tương lai"... Khoảng tháng 5 năm 2016, Tổ chức Y Tế thế giới ( WHO ), cho biết khí hậu Ô Nhiễm hâm nóng toàn cầu làm chết ba triệu người mỗi năm, vì ô nhiễm không khí tại các nước nghèo gồm Ấn Độ và Iran.
Ngày 14 tháng 7 năm 2017, Ngân hàng phát triển Châu Á -ADB ra phúc trình với cảnh báo, nếu tiếp tục hoạt động như lâu nay, thì tình trạng biến đổi khí hậu sẽ có tác động " thảm họa " đối với Châu Á; xóa bỏ nhiều thành tựu tăng trưởng kinh tế đáng kể giúp chống nghèo đói tại lục địa này.
Theo phúc trình được đưa ra thì vào cuối thế kỷ 21 này , nhiệt độ nhiều vùng của Châu Á có thể tăng đấn mức 8 oC cao hơn so với thời kỳ tiền công nghiệp trong khi nhiệt độ trung bình toàn cầu chỉ chỉ tăng chừng phân nửa con số đó mà thôi.
Theo ADB việc tiếp tục lệ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch thì lục địa Châu Á với số dân đông nhất thế giới như hiện nay sẽ phải đối diện với những đợt nắng nóng kéo dài, nước biển dâng dạng thức mưa thay đổi dần đến những đột biến trong hệ sinh thái, gây hại cho sinh kế và có thể cả chiến tranh.
Nội trong thế kỷ 21, nước biển tại Châu Á nói chung sẽ tăng chừng 1,4 mét. Đây là mức độ cho là gắp đôi được dự đoán theo kịch bản đưa ra theo thỏa thuận Paris 2015.
Thỏa ước về khí hậu đạt được ở Paris vào cuối năm 2015 với cam kết giữ nhiệt độ Trái Đất dưới mức 2 oC so với thời kỳ tiền công nghiệp. Lý do nếu để tăng lên 2 oC thì sẽ khó kiểm soát.
Theo giới chuyên môn thì mức tăng đến 4 oC sẽ là nguyên nhân đưa đến nhiều thảm họa cho con người tại nhiều quốc gia trên trái đất; từ đó tạo nên những làn sóng di dân không thể quản nổi.
Ngày 21 tháng 11 năm 2011 Diễn Đàn bàn về biến đổi khí hậu tổ chức tại Dhata Thủ Đô Bangladesh có sự tham dự của 30 quốc gia.
Tổng thư ký liên hiệp quốc ông Ban Ki Moon tại diễn đàn Dhata Bangladesh, ông cho rằng, nếu con người sẵn sàng đối phó trước những hiện tượng được cảnh báo như thế có thể tránh được những nổi khốn khó, tồi tệ hơn trong tương lai, về sự nguy hiểm khí hậu hâm nóng toàn cầu.
..." Chúng ta sẽ đối phó với nguy cơ biến đổi khí hậu, vì chúng ta biết rằng nếu không làm như thế thì chúng ta sẽ phản bội con cháu chúng ta và thế hệ tương lai"... Khoảng tháng 5 năm 2016, Tổ chức Y Tế thế giới ( WHO ), cho biết khí hậu Ô Nhiễm hâm nóng toàn cầu làm chết ba triệu người mỗi năm, vì ô nhiễm không khí tại các nước nghèo gồm Ấn Độ và Iran.
Ngày 14 tháng 7 năm 2017, Ngân hàng phát triển Châu Á -ADB ra phúc trình với cảnh báo, nếu tiếp tục hoạt động như lâu nay, thì tình trạng biến đổi khí hậu sẽ có tác động " thảm họa " đối với Châu Á; xóa bỏ nhiều thành tựu tăng trưởng kinh tế đáng kể giúp chống nghèo đói tại lục địa này.
Theo phúc trình được đưa ra thì vào cuối thế kỷ 21 này , nhiệt độ nhiều vùng của Châu Á có thể tăng đấn mức 8 oC cao hơn so với thời kỳ tiền công nghiệp trong khi nhiệt độ trung bình toàn cầu chỉ chỉ tăng chừng phân nửa con số đó mà thôi.
Theo ADB việc tiếp tục lệ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch thì lục địa Châu Á với số dân đông nhất thế giới như hiện nay sẽ phải đối diện với những đợt nắng nóng kéo dài, nước biển dâng dạng thức mưa thay đổi dần đến những đột biến trong hệ sinh thái, gây hại cho sinh kế và có thể cả chiến tranh.
Nội trong thế kỷ 21, nước biển tại Châu Á nói chung sẽ tăng chừng 1,4 mét. Đây là mức độ cho là gắp đôi được dự đoán theo kịch bản đưa ra theo thỏa thuận Paris 2015.
Thỏa ước về khí hậu đạt được ở Paris vào cuối năm 2015 với cam kết giữ nhiệt độ Trái Đất dưới mức 2 oC so với thời kỳ tiền công nghiệp. Lý do nếu để tăng lên 2 oC thì sẽ khó kiểm soát.
Theo giới chuyên môn thì mức tăng đến 4 oC sẽ là nguyên nhân đưa đến nhiều thảm họa cho con người tại nhiều quốc gia trên trái đất; từ đó tạo nên những làn sóng di dân không thể quản nổi.
Nếu
theo kịch bản cứ tiếp tục mọi hoạt động kinh doanh như lâu nay thì sẽ dẫn đến
những tác động thảm họa đối với người dân CHâu Á và Thái Bình Dương ; đặc biệt
giới dân chúng nghèo khổ, dễ bị thương tổn ( trích nguyên văn Đài Á Châu Tự Do
).
CÒN TIẾP
California, ngày 14 tháng 11 năm 2018
Huỳnh Kim
__._,_.___
Subscribe to:
Posts (Atom)
Featured post
Popular Posts
Popular Posts
My Blog List
-
-
-
-
-
-
-
-
-
https://www.facebook.com/reel/802490438523735 - https://www.facebook.com/reel/8024904385237355 months ago
-
-
-
BẠN TÔI: ĐẠI ÚY TRẦN QUANG HIỆP - https://www.facebook.com/groups/160591528349491/permalink/723350692073569/ https://www.youtube.com/watch?v=oqhFQFR2-JM Chuyện Xứ Xã Nghĩa rpedn...2 years ago
-
-
-
-
Đây là lý do tại sao bạn nên nằm ngủ nghiêng về bên trái - From: *VUONG DANG* < Date: Sun, Nov 22, 2020 at 8:10 PM Subject: Fw: Đây là lý do tại sao bạn nên nằm ngủ nghiêng về bên trái/Why Sleepingon Your Left ...3 years ago
-
5 Kỷ Lục Thế Giới Dành Cho Ẩm Thực Việt Nam - WATCH LIVE NOW : NHỮNG CA KHÚC HAY NHẤT CỦA HOÀI AN [14 Ca Khúc] (Super HD Videos) https://www.youtube.com/playlist?list=PLNBxCTIUVE70m607mVC5vUdM...4 years ago
-
-